Mục tiêu nghiên cứu của luận án là hệ thống hóa cơ sở lý luận về HQHĐKD của CTCK, đánh giá thực trạng hiệu quả hoạt động kinh doanh của các CTCK thành viên SGDCK tại Việt Nam và nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến HQHĐKD của các CTCK thành viên SGDCK giai đoạn 2013-2019. Từ đó, đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao HQHĐKD cho các CTCK thành viên SGDCK tại Việt Nam. Mời các bạn tham khảo! | 1 LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Thị trường chứng khoán là kênh dẫn vốn quan trọng của nền kinh tế TTCK chỉ hoạt động có hiệu quả khi các chủ thể tham gia trên thị trường có đầy đủ những điều kiện năng lực nhất định đảm bảo hoạt động kinh doanh có hiệu quả trong đó CTCK là một trong các chủ thể đóng vai trò nòng cốt. Ở Việt Nam trải qua hơn 20 năm hình thành và phát triển các CTCK đã có sự tăng trưởng cả về số lượng và chất lượng. Khi TTCK đi vào hoạt động số lượng các CTCK mới có 7 công ty có những giai đoạn số lượng CTCK đã tăng lên đến 105 công ty tuy nhiên hiện nay chỉ còn lại 74 CTCK đang hoạt động trên thị trường. Thực tế này chứng minh cho sự khắc nghiệt trong hoạt động của các định chế tài chính này. Một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thực trạng trên là do hoạt động kinh doanh của nhiều CTCK chưa hiệu quả chưa ổn định chưa tương xứng với tiềm năng của các CTCK. Ngoài ra HQHĐKD là một trong 5 tiêu chí phân loại đánh giá CTCK thành viên ở Việt Nam theo chuẩn CAMELS. Bộ tiêu chí đánh giá xếp hạng CTCK thành viên theo mô hình CAMELS là công cụ để Sở giao dịch chứng khoán xem xét đánh giá về chất lượng tình trạng tài chính của CTCK cũng như sự lành mạnh trong công tác quản trị công ty. Đặc biệt Việt Nam đã trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới WTO và cam kết mở cửa thị trường tài chính trong đó có thị trường chứng khoán các CTCK đang phải đứng trước áp lực cạnh tranh gay gắt. Vì vậy các CTCK thành viên SGDCK phải luôn tạo ra và duy trì các lợi thế cạnh tranh chất lượng và sự khác biệt các sản phẩm dịch vụ giá cả và tốc độ cung ứng. Muốn vậy các CTCK thành viên SGDCK phải không ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của mình để khẳng định năng lực của mình tạo niềm tin cho các nhà đầu tư nước ngoài và tạo chỗ đứng vững chắc trên thị trường trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng như hiện nay. Hơn nữa để phục vụ tốt cho hoạt động của thị trường chứng khoán phái sinh đã đi vào hoạt động và phát triển ở Việt Nam .