Nhiều người vẫn còn thói quen rắc bột rifampicin lên vết thương. Rifampicin là thuốc đặc trị lao nhưng thường được người dân gọi nôm na là "thuốc đỏ" vì bột thuốc có màu đỏ. Nó được lạm dụng khá nhiều để dùng làm thuốc bôi ngoài, rắc vào vết thương hở khiến cho tình trạng kháng thuốc có nguy cơ tăng lên. Rifampicin (tên khác: rifampin) là kháng sinh bán tổng hợp từ kháng sinh tự nhiên rifamycin B được lấy từ môi trường nuôi cấy Streptomyces mediterian. Rifampicin có tác dụng diệt khuẩn tốt, nhất là trong điều trị. | Tại sao rifampicin được dùng làm thuốc đặc trị lao Nhiều người vẫn còn thói quen rắc bột rifampicin lên vết thương. Rifampicin là thuốc đặc trị lao nhưng thường được người dân gọi nôm na là thuốc đỏ vì bột thuốc có màu đỏ. Nó được lạm dụng khá nhiều để dùng làm thuốc bôi ngoài rắc vào vết thương hở khiến cho tình trạng kháng thuốc có nguy cơ tăng lên. Rifampicin tên khác rifampin là kháng sinh bán tổng hợp từ kháng sinh tự nhiên rifamycin B được lấy từ môi trường nuôi cấy Streptomyces mediterian. Rifampicin có tác dụng diệt khuẩn tốt nhất là trong điều trị bệnh lao. Nó có mặt trong tất cả các phác đồ công thức chống lao hiện nay với ký hiệu là R. Rifampicin hấp thu tốt qua đường tiêu hoá sinh khả dụng trên 90 vì vậy trong điều trị chủ yếu dùng dạng thuốc uống. Khi uống liều 600mg sau 2-4 giờ thuốc đạt nồng độ tối đa trong máu là 7-9 microgam ml duy trì tác dụng 8-12 giờ. Thức ăn làm chậm và giảm hấp thu của thuốc vì vậy phải dùng thuốc khi đói. Khoảng 80 thuốc liên kết không bền với protein huyết tương. Thuốc phân bố rộng rãi vào các mô và dịch cơ thể đặc biệt là phổi và dịch phế quản. Thuốc qua được nhau thai sữa mẹ và dịch não tủy khi màng não bị viêm. Rifampicin chuyển hoá ở gan bằng phản ứng acetyl hoá thời gian bán thải 3-5 giờ. Thuốc thải trừ khoảng 65 qua phân và khoảng 30 qua nước tiểu phần còn lại thải qua mồ hôi nước bọt nước mắt. Sản phẩm thải trừ có màu đỏ do đó làm cho nước tiểu phân và nước mắt có màu đỏ da cam. Rifampicin là kháng sinh phổ rộng có tác dụng tốt với các vi khuẩn gram dương và âm trừ cầu khuẩn đường ruột như lậu cầu não mô cầu liên cầu kể cả chủng kháng methicillin haemophilus influenzae. Rifampicin có tác dụng tốt với các chủng vi khuẩn Mycobacterium đặc biệt là Mycobarterium tuberculosis vi khuẩn phong Mycobacterium laprae và các vi khuẩn cơ hội . Nồng độ ức chế tối thiểu với trực khuẩn lao là 0 1 - 2 microgam ml. Vì vậy hiện nay thuốc này được sử dụng đặc trị lao. Chỉ khi nào cần thiết mới sử dụng cho các loại nhiễm .