Mục đích của bài báo này là nghiên cứu tính chất của bê tông nhẹ sử dụng cốt liệu nhẹ Keramzit và ảnh hưởng của các thành phần vật liệu (tỷ lệ X/N, lượng cốt liệu lớn, cốt liệu nhỏ) đến tính chất của bê tông nhẹ. Các thí nghiệm đã được thực hiện trên một số cấp phối bê tông nhẹ, bao gồm độ sụt, khối lượng thể tích, cường độ chịu nén. | BÀI BÁO KHOA HỌC NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC THÀNH PHẦN VẬT LIỆU ĐẾN MỘT SỐ TÍNH CHẤT BÊ TÔNG NHẸ SỬ DỤNG CỐT LIỆU KERAMZIT Hoàng Quốc Gia1 Vũ Quốc Vương1 Tóm tắt Mục đích của bài báo này là nghiên cứu tính chất của bê tông nhẹ sử dụng cốt liệu nhẹ Keramzit và ảnh hưởng của các thành phần vật liệu tỷ lệ X N lượng cốt liệu lớn cốt liệu nhỏ đến tính chất của bê tông nhẹ. Các thí nghiệm đã được thực hiện trên một số cấp phối bê tông nhẹ bao gồm độ sụt khối lượng thể tích cường độ chịu nén. Kết quả các thí nghiệm cho thấy mỗi sự thay đổi về thành phần vật liệu đều có ảnh hưởng đến các tính chất cơ lý của bê tông nhẹ. Việc hiểu rõ các tính chất này giúp tìm ra tỷ lệ các thành phần vật liệu phù hợp của bê tông nhẹ để ứng dụng trong các công trình xây dựng. Từ khoá Bê tông nhẹ sỏi Keramzit độ sụt khối lượng thể tích cường độ nén. 1. GIỚI THIỆU CHUNG thì Keramzit là loại phổ biến và được sử dụng Bê tông nhẹ là vật liệu khá phổ biến trong xây rộng rãi nhất hình 1 . Sỏi nhẹ Keramzit là vật liệu dựng hiện đại. Chúng được sử dụng trong nhiều xây dựng nhân tạo được sản xuất từ các loại lĩnh vực khác nhau làm khung sàn tường cho khoáng sét dễ chảy bằng phương pháp nung nhà nhiều tầng dùng trong các kết cấu bản mỏng phồng nhanh. Chúng có cấu trúc tổ ong với các lỗ tấm cong trong kết cấu bê tông ứng suất trước rỗng nhỏ và kín. Xương và vỏ của sỏi Keramzit trong chế tạo các cấu kiện bê tông cốt thép đúc rất vững chắc. sẵn tường bao trần và mái cách nhiệt vv. Những loại bê tông có khối lượng thể tích KLTT ở trạng thái khô trong khoảng 500 - 1800kg m3 gọi là bê tông nhẹ nhỏ hơn 500kg m3 gọi là bê tông đặc biệt nhẹ. Bê tông nhẹ sử dụng cốt liệu rỗng là lọai bê tông nhẹ phổ biến nhất. Cốt liệu rỗng có nguồn gốc từ núi lửa và trầm tích như đá bọt xỉ núi lửa đá phấn đá vôi đá đôlômit rỗng trêpen diatômit . đã được sử dụng ở châu Âu từ cuối thế kỷ XIX. Ưu điểm của loại này là giá rẻ tuy nhiên không phải vùng nào cũng có. Vào những năm Hình 1. Sỏi nhẹ Keramzit đầu của thế kỷ XX người ta