Ung thư buồng trứng rất hiếm khi xảy ra trong thai kỳ, có tỷ lệ từ 0,2 - thai kỳ. Siêu âm là một công cụ có giá trị trong dự đoán bản chất lành hay ác tính của khối u buồng trứng dựa vào những mô hình IOTA. Chưa đủ bằng chứng để áp dụng mô hình tiên đoán lành ác các khối bướu buồng trứng trong thai kỳ. Mục tiêu của nghiên cứu: Mô tả đặc điểm lâm sàng, hình ảnh siêu âm, phương pháp điều trị, kết cục sản khoa của các trường hợp ung thư buồng trứng trong thai kỳ. | BÁO CÁO TRƯỜNG HỢPP Báo cáo loạt ca bệnh hiếm gặp Ung thư buồng trứng trong thai kì Nguyễn Hồng Hoa1 Phạm Duy Hùng2 1 Bộ môn Phụ Sản Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh 2 Bác sĩ nội trú Bộ môn Phụ Sản Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh doi Tác giả liên hệ Corresponding author Nguyễn Hồng Hoa email drhonghoa@ Nhận bài received 21 7 2021 - Chấp nhận đăng accepted 10 9 2021 Tóm tắt Đặt vấn đề Ung thư buồng trứng rất hiếm khi xảy ra trong thai kỳ có tỷ lệ từ 0 2 - 100000 thai kỳ. Siêu âm là một công cụ có giá trị trong dự đoán bản chất lành hay ác tính của khối u buồng trứng dựa vào những mô hình IOTA. Chưa đủ bằng chứng để áp dụng mô hình tiên đoán lành ác các khối bướu buồng trứng trong thai kỳ. Mục tiêu của nghiên cứu Mô tả đặc điểm lâm sàng hình ảnh siêu âm phương pháp điều trị kết cục sản khoa của các trường hợp ung thư buồng trứng trong thai kỳ. Đối tượng và Phương pháp nghiên cứu Báo cáo hồi cứu được thực hiện từ tháng 01 2019 đến tháng 12 2020 tại Bệnh viện Từ Dũ. Từ hồ sơ bệnh án chúng tôi xác định các trường hợp có chẩn đoán khối u buồng trứng trong thai kỳ loại trừ các trường hợp có biến chứng và được phẫu thuật với kết quả giải phẫu bệnh là bướu ác tính. Kết quả Chúng tôi thu thập 3 trường hợp ung thư buồng trứng trong thai kỳ trong thời gian từ tháng 01 2019 đến tháng 12 2020. Các thai phụ đều ở độ tuổi dưới 30 và được phẫu thuật cắt khối bướu trong thời gian tam cá nguyệt thứ hai TCN II của thai kỳ. Đặc điểm chung trên siêu âm của cả 3 trường hợp khối bướu đều có kích thước lớn gt 100 mm và có mô đặc với bờ không đều. Hai trong ba trường hợp có tăng sinh mạch máu mức độ 3. Khi áp dụng mô hình chẩn đoán hai trường hợp thuộc nhóm có nguy cơ ác tính theo quy tắc đơn giản nhưng cả ba trường hợp có nguy cơ ác tính theo mô hình ADNEX tương ứng với nhóm O-RADS 4 hoặc 5. Kết cục thai kỳ có 2 trường hợp thai đủ tháng sinh thường và 1 trường hợp chấm dứt lúc thai 35 tuàn và đều có hóa trị trong thai kỳ. Kết luận Sử dụng .