Thành lập bản đồ độ ẩm đất sử dụng tư liệu viễn thám đa thời gian MODIS bằng phương pháp tam giác NDVI/LST, nghiên cứu thí điểm cho lưu vực sông Cả

Nghiên cứu này cho thấy việc ước lượng độ ẩm đất bằng cách kết hợp độ ẩm đất thực địa và các thông số của bề mặt đất được chiết xuất từ dữ liệu MODIS là chính xác và hiệu quả, có thể được sử dụng như một đầu vào cho nhiều mô hình thủy văn. | Nghiên cứu THÀNH LẬP BẢN ĐỒ ĐỘ ẨM ĐẤT SỬ DỤNG TƯ LIỆU VIỄN THÁM ĐA THỜI GIAN MODIS BẰNG PHƯƠNG PHÁP TAM GIÁC NDVI LST NGHIÊN CỨU THÍ ĐIỂM CHO LƯU VỰC SÔNG CẢ NGUYỄN THANH BÌNH 1 PHẠM MINH HẢI 2 NGUYỄN VĂN TUẤN 3 1 Viện Địa lý Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam 2 Viện Khoa học Đo đạc và Bản đồ Bộ Tài nguyên và Môi trường 3 Viện Quy hoạch Thủy lợi Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Tóm tắt Các tham số bề mặt đất như mức độ gồ ghề hay mật độ che phủ thực vật là những yếu tố cản trở việc ứng dụng phổ biến tư liệu radar trong ước tính độ ẩm đất. Vì vậy một kỹ thuật phù hợp để ước lượng độ ẩm đất mà không yêu cầu thông tin về tình trạng gồ ghề của bề mặt đất và không giới hạn ở các điểm ảnh có NDVI gt là cần thiết. Bài báo này sử dụng mối quan hệ giữa nhiệt độ bề mặt LST và chỉ số NDVI được tính từ tư liệu MODIS kết hợp với số liệu độ ẩm đất thực địa để ước tính độ ẩm đất cho lưu vực sông Cả. Kết quả bước đầu đã thành lập được bản đồ độ ẩm đất khu vực nghiên cứu với hệ số tương quan R2 gt và sai số bình phương trung bình RMSE là . Nghiên cứu này cho thấy việc ước lượng độ ẩm đất bằng cách kết hợp độ ẩm đất thực địa và các thông số của bề mặt đất được chiết xuất từ dữ liệu MODIS là chính xác và hiệu quả có thể được sử dụng như một đầu vào cho nhiều mô hình thủy văn. 1. Mở đầu ẩm đất trên một diện tích rộng và liên tục về thời gian Shi 1997 . Các phương pháp thực nghiệm Độ ẩm đất là một tham số quan trọng đối với được xây dựng dựa trên các mối quan hệ chức phương trình cân bằng nước-đất ở quy mô toàn năng giữa các biến đo trong khi các phương cầu vùng và địa phương bao gồm định lượng pháp lý thuyết đưa ra các hiện tượng tán xạ phức các thành phần của phương trình và những trao tạp từ các mô hình của đất thực vật và địa hình đổi trong vùng thẩm thấu Davenport 2005 . Độ Ahmad 2010 . Castro 2014 và Wang 2009 ẩm của đất thường được gọi là độ ẩm của bề mặt đã phân loại các kỹ thuật ước tính độ ẩm đất sử đất là lượng nước bên trong 10 cm lớp đất bề .

Không thể tạo bản xem trước, hãy bấm tải xuống
TÀI LIỆU LIÊN QUAN
TỪ KHÓA LIÊN QUAN
TÀI LIỆU MỚI ĐĂNG
Đã phát hiện trình chặn quảng cáo AdBlock
Trang web này phụ thuộc vào doanh thu từ số lần hiển thị quảng cáo để tồn tại. Vui lòng tắt trình chặn quảng cáo của bạn hoặc tạm dừng tính năng chặn quảng cáo cho trang web này.