Bài viết Hội chứng Brugada: Những triển vọng mới sau gần 3 thập kỷ trình bày lịch sử của hội chứng Brugada; Cơ chế bệnh sinh và cơ sở di truyền; Triệu chứng lâm sàng; Đặc điểm ECG; Thăm dò điện sinh lý; Điều trị hội chứng Brugada; Triệt đốt ngoại mạc trong hội chứng Brugada. | CHUYÊN ĐỀ Hội chứng Brugada Những triển vọng mới sau gần 3 thập kỷ Phan Đình Phong Trần Tuấn Việt Viện Tim mạch Việt Nam TÓM TẮT rung thất đi kèm với ST chênh vòm cố định ở những Hội chứng Brugada là một rối loạn di truyền có chuyển đạo trước tim phải. Năm 1996 hội chứng liên quan đến tăng nguy cơ đột tử do rung thất ở rối loạn nhịp này được đặt tên là hội chứng Brugada. những bệnh nhân không có bệnh tim thực tổn. Hiện Hội chứng này được coi là một bệnh có tính chất tại hội chứng Brugada được chẩn đoán bằng đoạn gia đình vì ngất và hoặc đột tử xảy ra ở nhiều người ST chênh vòm điển hình gt 2mm ở gt 1 chuyển đạo trong cùng một gia đình và gen đột biến đầu tiên trước tim phải V1 V2 xảy ra tự phát hoặc sau test được xác định vào năm 1998. kích thích chẹn kênh Na mà không có bằng chứng Bất chấp những nỗ lực nghiên cứu mạnh mẽ của rối loạn nhịp ác tính trước đó. Tất cả những được ghi nhận hiện nay vẫn còn nhiều tranh cãi về bệnh nhân được chẩn đoán hội chứng Brugada có sinh lý bệnh phân tầng nguy cơ và phương pháp triệu chứng nên được cấy máy ICD để phòng ngừa điều trị bệnh. Trong 10 năm trở lại đây đã có những đột tử do rung thất. Những bệnh nhân không có bước tiến lớn trong chẩn đoán cũng như điều trị hội triệu chứng nên được khảo sát điện sinh lý để đánh chứng Brugada. giá sự cần thiết có phải cấy máy ICD hay không. Những tiến bộ mới trong triệt đốt RF với phương CƠ CHẾ BỆNH SINH VÀ CƠ SỞ DI TRUYỀN pháp lập bản đồ bằng hệ thống 3D kèm theo bộc lộ BrS thường được coi là một bệnh lý kênh ion vùng cơ chất rối loạn nhịp bằng các thuốc nhóm I đã chủ yếu do đột biến nhiễm sắc thể thường. Sự thay mở ra một kỉ nguyên mới trong điều trị hội chứng đổi về vật liệu di truyền ở bệnh nhân mắc BrS được Brugada. Triệt đốt vùng cơ chất làm biến mất dạng xác định lần đầu vào năm 1998 trong gen SCN5A ST chênh vòm trên ECG cũng kiểm soát hiệu quả bởi Chen và cộng sự. Bên cạnh đó cho tới nay đã có tần suất .