Quyển 4: Chế phẩm sinh học bảo vệ cây trồng - Công nghệ sinh học cho nông dân (Phần 2)

Nối tiếp nội dung của phần 1 Ebook Công nghệ sinh học cho nông dân - Quyển 4: Chế phẩm sinh học bảo vệ cây trồng, phần 2 trình bày các nội dung: các nhóm chế phẩm sinh học ứng dụng trong nông nghiệp; một số chế phẩm sinh học được ưa chuộng trong sản xuất. Mời các bạn cùng tham khảo! | PHẦN III. CÁC NHÓM CHÊ PHAM s in h HỌC ỨNG DỤNG TRONG NÔNG NGHIỆP Cùng với sự đa dạng của cây trồng thì sự đa dạng của sâu hại ở Việt Nam cũng rất lớn. Hàng năm thiệt hại do sâu hại khoảng 25-30 thậm chí có khi lên đến 40-50 . Thành phần sâu hại khoảng 753 loài thuộc 99 họ và 10 bộ. Để bảo vệ mùa màng người trồng trọt thường sử dụng các thuốc trừ sâu hóa học. Do sâu hại có khả năng kháng thuốc nên người trồng trọt thường tăng nồng độ sử dụng dẫn đến dư lượng thuốc trừ sâu trong sản phẩm nông nghiệp tăng cao gây mất an toàn cho người sử dụng ảnh hưởng bất lợi đối với môi trường sức khỏe cộng đồng và chính người trồng trọt. Ngoài ra các sản phẩm này không thể xuất khẩu được nên ảnh hưởng lớn đến thu nhập của nông dân. Đây cũng là một thách thức lớn cho nông dân Việt Nam khi ra nhập WTO. Ở Việt Nam việc sử dụng tác nhân sinh học trong phòng trừ sinh học sâu hại đã được quan tâm từ khá lâu. Chế phẩm Bt Bacillus thuringiensis đã được nghiên cứu từ năm 1971. Hơn 20 chế phẩm Bt nhập khẩu và nội địa đã cho kết quả tốt trong phòng thí nghiệm và ngoài đồng đối với một số sâu hại chính trên đồng ruộng như sâu xanh bướm trắng sâu xám sâu tơ sâu hại bông sâu đo. Một số dòng virus NPV Nucleopolyhedroviruses và 31 GV Granuloviruses cũng đã được nghiên cứu từ những năm 80. Năm 1995 Viện Bảo vệ Thực vật đã phân lập được 5 chủng virus gây bệnh ở sâu hại bông sâu xám sâu xanh bướm trắng sâu đo sâu hại củ cải. Nấm gây bệnh côn trùng Beauveria bassiana đã được sử dụng trong phòng trừ sâu róm hại thông ở Hà Bắc Thanh Hóa. Năm 1990 Viện Bảo vệ Thực vật đã phân lập và sản xuất thử một số loài nấm ký sinh gây bệnh côn trùng và cũng cho kết quả khả quan. Tuyến trùng ký sinh gây bệnh côn trùng EPN đã được nghiên cứu ở Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật từ năm 1997. Đến nay gần 50 chủng EPN đã được phân lập ở Việt Nam và chúng có tiềm năng rất lớn trong phòng trừ sâu hại bởi chúng có phổ vật chủ rộng có khả năng tìm kiếm vật chủ có thể kết hợp với thuốc trừ sâu hóa học và có khả năng .

Không thể tạo bản xem trước, hãy bấm tải xuống
TỪ KHÓA LIÊN QUAN
TÀI LIỆU MỚI ĐĂNG
Đã phát hiện trình chặn quảng cáo AdBlock
Trang web này phụ thuộc vào doanh thu từ số lần hiển thị quảng cáo để tồn tại. Vui lòng tắt trình chặn quảng cáo của bạn hoặc tạm dừng tính năng chặn quảng cáo cho trang web này.