Khi quần thể hoàn thành sự tăng trưởng số lượng của mình tức là khi b = d hay khi r tiến đến 0 một cách ổn định thì số lượng quần thể có khuynh hướng dao động quanh một giá trị trung bình. | Sự dao động số lượng của quần thể Khi quần thể hoàn thành sự tăng trưởng số lượng của mình tức là khi b d hay khi r tiến đến 0 một cách ổn định thì số lượng quần thể có khuynh hướng dao động quanh một giá trị trung bình. Thông thường sự dao động được gây ra bởi những biến đổi của điều kiện môi trường theo chu kỳ ngày đêm mùa một số năm. hoặc có thể bởi các yếu tố ngẫu nhiên song ở một số quần thể sự dao động xảy ra rất đều chuẩn đến mức có thể coi chúng như những dạng tuần hoàn. Sự dao động số lượng của quần thể mà . Nikolski 1974 đã chỉ ra như 1 tiêu điểm sinh thái ở đó phản ánh tất cả những đặc trưng sinh học cơ bản của quần thể đặc biệt là sự sinh trưởng của các cá thể nhịp điệu sinh sản và tử vong mức độ sống sót và tốc độ tăng trưởng của quần thể thông qua mức độ đảm bảo thức ăn của môi trường đối với quần thể đó. Trừ những dao động không theo chu kỳ gây ra bởi những nguyên nhân ngẫu nhiên như cháy rừng bão tố lũ lụt dịch bệnh .còn có những dao động theo chu kỳ. Sự dao động có chu kỳ đối với các quần thể tự nhiên có thể được phân chia - Dao động theo ngày đêm liên quan đến sự biến đổi của bức xạ Mặt Trời có tính luân phiên ngày và và đêm. - Dao động số lượng theo mùa nhờ sự điều chỉnh chủ yếu của các yếu tố khí hậu nhiệt độ thường ở vùng ôn đới và lượng mưa ở các vùng nhiệt đới - Dao động theo chu kỳ năm gồm dao động được kiểm soát trước hết do những sai khác theo năm của các yếu tố bên ngoài như nhiệt độ lượng mưa. nằm ngoài tác động của quần thể và dao động có liên quan trước tiên với chính động thái của quần thể các yếu tố sinh học như độ đảm bảo thức ăn năng lượng bệnh tật. . Trong đa số trường hợp sự biến đổi số lượng từ năm này sang năm khác có liên quan chặt chẽ đến sự thay đổi của một hay một vài yếu tố giới .