Không rõ nguyên nhân: - Chiếm khoảng 25% các trường hợp CPTTT là do bất thường về sinh học thường gặp nhất là rối loạn nhiễm sắc thể và rối loạn chuyển hoá như hội chứng Down và bệnh Phenylcetol. Người ta có thể chẩn đoán sớm các trường hợp này vì CPTTT thường ở mức độ trung bình đến trầm trọng, loại CPTTT này ít gặp ở các thành viên khác của gia đình, trừ khi rối loạn sinh học có tính chất di truyền như ở bệnh Phenylcetol niệu và bệnh tay - Sachs. - Khoảng 75%. | CHẬM PHÁT TRIỂN TÂM THẦN Kỳ 2 5. Không rõ nguyên nhân - Chiếm khoảng 25 các trường hợp CPTTT là do bất thường về sinh học thường gặp nhất là rối loạn nhiễm sắc thể và rối loạn chuyển hoá như hội chứng Down và bệnh Phenylcetol. Người ta có thể chẩn đoán sớm các trường hợp này vì CPTTT thường ở mức độ trung bình đến trầm trọng loại CPTTT này ít gặp ở các thành viên khác của gia đình trừ khi rối loạn sinh học có tính chất di truyền như ở bệnh Phenylcetol niệu và bệnh tay - Sachs. - Khoảng 75 các trường hợp khác người ta không tìm thấy yếu tố sinh học chuyên biệt sự giảm sút trí tuệ thường nhẹ với IQ từ 50 - 70 và khó chẩn đoán trước giai đoạn đi học. Loại này có thể kết hợp với các thiếu sót về ngôn ngữ tiếp xúc xã hội và thường gặp ở nhiều thành viên khác trong gia đình. 6. Một số bệnh hay gây CPTTT - Bệnh Phenylcetol niệu bệnh Folling do thiếu chất phenylalaminoxydase - là một men chuyển hoá phenylalamin thành Tyrosin. Vì vậy Phenylalamin tăng trong máu và acid phenylpyruvic tăng trong nước tiểu. Bệnh biểu hiện bằng các triệu chứng nôn nước tiểu có mùi hôi bất thường cơn co giật giảm sắc tố ở tóc ở da tăng trương lực cơ rối loạn tác phong CPTTT từ mức trung bình đến nghiêm trọng. - Chẩn đoán dựa vào xét nghiệm nước tiểu theo phương pháp Folling. Điều trị chủ yếu bằng chế độ dinh dưỡng đặc biệt như hạn chế protid tự nhiên thay bằng dung dịch thuỷ phân Casein có đủ lượng Tryptophan Tyrosin các acid amin khác và càng có ít Phenylalamin càng tốt. Nếu để quá chậm việc điều trị không kết quả. - Hội chứng Down Trisomic 21 bệnh được Longdon Down mô tả năm 1886 đến năm 1959 Lejeune Turpin và Gautir mới phát hiện được nguyên nhân của nó là do thừa một nhiễm sắc thể ở cặp thứ 21. Theo Mattri Trisomic có 3 loại Trisomic tự do chiếm 94 các trường hợp. Trong đó tất cả các tế bào đều thừa 1 nhiễm sắc thể ở cặp 21. Trisomic dạng khảm chiếm 2 các trường hợp chỉ có một số tế bào thừa một nhiễm sắc thể ở cặp 21. Trisomic chuyển vị chiếm 4 các trường hợp trong đó một nhiễm sắc thể thừa