Hội chứng Cushing phụ thuộc tuyến yên (Pituitary-dependent Cushing’s syndrome). . Định nghĩa: Hội chứng Cushing phụ thuộc tuyến yên hay còn gọi là bệnh Cushing do cường tế bào ưa bazơ của thùy trước tuyến yên gây tăng tổng hợp ACTH, dẫn đến những rối loạn bệnh lý ở tuyến yên và tăng tiết cortisol thứ phát ở lớp vỏ thượng thận. Hội chứng Cushing là danh pháp dùng chỉ tình trạng cường chức năng vỏ thượng thận tiên phát, có thể do u vỏ thượng thận, dùng corticoid liều cao, kéo dài hoặc khối u ngoài tuyến yên tiết. | Hội chứng cường chức năng tuyến yên Kỳ 4 . Hội chứng Cushing phụ thuộc tuyến yên Pituitary-dependent Cushing s syndrome . . Định nghĩa Hội chứng Cushing phụ thuộc tuyến yên hay còn gọi là bệnh Cushing do cường tế bào ưa bazơ của thùy trước tuyến yên gây tăng tổng hợp ACTH dẫn đến những rối loạn bệnh lý ở tuyến yên và tăng tiết cortisol thứ phát ở lớp vỏ thượng thận. Hội chứng Cushing là danh pháp dùng chỉ tình trạng cường chức năng vỏ thượng thận tiên phát có thể do u vỏ thượng thận dùng corticoid liều cao kéo dài hoặc khối u ngoài tuyến yên tiết ACTH. . Nguyên nhân U tuyến yên tiết ACTH. Chấn thương sọ não. Nhiễm khuẩn viêm não-màng não. Nhiễm độc. Phụ nữ mang thai sau đẻ. Rối loạn nội tiết thời kỳ mãn kinh. . Cơ chế bệnh sinh Tăng tiết ACTH là yếu tố cơ bản trong cơ chế bệnh sinh bệnh Cushing. Tăng nồng độ ACTH dẫn đến tăng cường chức năng lớp bó và lớp dưới của vỏ thượng thận. Cường chức năng lớp bó gây tăng tiết glucocorticoid là nguyên nhân gây ra các biểu hiện như tăng huyết áp thưa xương béo phì rối loạn chuyển hoá glucose. Cường chức năng lớp lưới vỏ thượng thận gây tăng tiết androgen là nguyên nhân của các triệu chứng rối loạn chức năng buồng trứng mụn cá rậm lông. . Lâm sàng Bệnh Cushing hay hội chứng Cushing đều có triệu chứng tương tự như nhau. Triệu chứng chung toàn thân và da. Bệnh nhân thường mệt mỏi đau đầu người bệnh không muốn vận động. Thay đổi hình dáng bên ngoài như mọc nhiều lông ria mép đau vùng thắt lưng đau nhức xương. Mặt béo tròn như mặt trăng rằm đỏ mắt híp má phính cằm đôi cổ cũng béo tròn. Thân béo bụng to phệ lưng và vùng vai gáy có các bờm mỡ. Da khô mỏng có những vạch màu đỏ tím stria do tăng quá trình dị hoá giảm tổng hợp protein ở tổ chức dưới da. Vạch màu đỏ tím thường thấy ở vùng hố chậu mặt trong đùi và cánh tay nách vú. Màu đỏ tím là do sự ánh lên của những mao mạch qua lớp da đã thoái hoá. Trên da thường có những đốm xuất huyết những đám bầm máu. Có thể xạm da do tăng tiết MSH hoặc do tác dụng của ACTH.