Nguyên tắc dùng kháng sinh 1. Chỉ dùng kháng sinh cho nhiễm khuẩn. Không dùng cho nhiễm virus (có loại riêng). Dùng càng sớm càng tốt. 2. Chỉ định theo phổ tác dụng. Nếu nhiễm khuẩn đã xác định, dùng kháng sinh phổ hẹp. 3. Dùng đủ liều để đạt được nồng độ đủ và ổn định. Không dùng liều tăng dần. 4. Dùng đủ thời gian: trên cơ thể nhiễm khuẩn, vi khuẩn ở nhiều giai đoạn khác nhau với kháng sinh. Nếu sau 2 ngày dùng kháng sinh, sốt không giảm, cần thay hoặc phối hợp. | Thuốc kháng sinh kháng khuẩn Kỳ 13 3. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ SỬ DỤNG KHÁNG SINH . Nguyên tắc dùng kháng sinh 1. Chỉ dùng kháng sinh cho nhiễm khuẩn. Không dùng cho nhiễm virus có loại riêng . Dùng càng sớm càng tốt. 2. Chỉ định theo phổ tác dụng. Nếu nhiễm khuẩn đã xác định dùng kháng sinh phổ hẹp. 3. Dùng đủ liều để đạt được nồng độ đủ và ổn định. Không dùng liều tăng dần. 4. Dùng đủ thời gian trên cơ thể nhiễm khuẩn vi khuẩn ở nhiều giai đoạn khác nhau với kháng sinh. Nếu sau 2 ngày dùng kháng sinh sốt không giảm cần thay hoặc phối hợp kháng sinh. Khi điều trị đã hết sốt vẫn cần cho thêm kháng sinh 2 - 3 ngày nữa. Nói chung các nhiễm khuẩn cấp cho kháng sinh 5 - 7 ngày. Các nhiễm khuẩn đặc biệt dùng lâu hơn như viêm nội tâm mạc Osler nhiễm khuẩn tiết niệu viêm bể thận 2 - 4 tuần viêm tuyến nhiếp hộ 2 tháng nhiễm khuẩn khớp háng 3 - 6 tháng nhiễm lao 9 tháng. 5. Chọn thuốc theo dược động học hấp thu phân phối chuyển hóa thải trừ phụ thuộc vào nơi nhiễm khuẩn và tình trạng bệnh nhân. 6. Cần phối hợp với biện pháp điều trị khác khi nhiễm khuẩn có ổ mủ hoại tử mô vật lạ sỏi thì cho kháng sinh phải kèm theo thông mủ phẫu thuật. . Những nguyên nhân thất bại trong việc dùng kháng sinh 1. Chọn kháng sinh không đúng phổ tác dụng 2. Kháng sinh không đạt được tới ngưỡng tác dụng tại ổ nhiễm khuẩn do liều lượng không hợp lý do dược động học không thích hợp do tương tác thuốc làm giảm tác dụng của kháng sinh 3. Do vi khuẩn đã kháng thuốc. Cần thay kháng sinh khác hoặc phối hợp kháng sinh. . Vi khuẩn kháng kháng sinh . Kháng tự nhiên vi khuẩn đã có tính kháng từ trước khi tiếp xúc với kháng sinh như sản xuất p lactamase cấu trúc của thành vi khuẩn không thấm với kháng sinh. . Kháng mắc phải vi khuẩn đang nhậy cảm với kháng sinh sau một thời gian tiếp xúc trở thành không nhậy cảm nữa do Đột biến hoặc kháng qua nhiễm sắc thể. Mọi vi khuẩn đều có protein đích để gắn với kh áng sinh cụ thể tại ribosom DNA gyrase RNA polymerase. Do đột biến các protein đích đã thay đổi