Năm 1995, Việt Nam gia nhập tổ chức ASEAN, năm 2006 gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO. Điều này đặt ra cho đất nước những cơ hội lớn đồng thời đi kèm là những thách thức cần vựơt qua để hội nhập và phát triển cùng với nền kinh tế thương mại thế giới. Việt Nam tiến lên xây dựng xã hội chủ nghĩa từ một đất nước nghèo vừa thoát khỏi chiến tranh, nền kinh tế lạc hậu, cơ sở vật chất thiếu thốn | tăng trưởng kinh tế trong thời gian qua chưa thực sự ổn định và tương xứng với tiềm năng. Sự chưa ổn định thể hiện ở chỗ tốc độ tăng trưởng GDP diễn biến trồi, sụt theo thời gian. Có thể nhận thấy rõ tính chất trồi, sụt này: năm 1986 tốc đọ tăng trưởng đạt 6,5% sau đó giảm xuống còn 3,4% năm 1987, rồi tăng lên 4,6% năm 1988, rồi giảm xuống mức thấp nhất trong vòng 20 năm qua còn 2,7% năm 1989. Tiếp đó, tốc độ tăng trưởng tăng liên tiếp trong ba năm đạt 8,6% năm 1992, sau đó giảm xuống còn 8,1% năm 1993, rồi tiếp tục tăng đạt mức đỉnh điểm 9,5% năm 1995. Kể từ mức đỉnh điểm này, tốc độ tăng trưởng giảm liên tiếp trong vòng bốn năm xuống chỉ còn 4,8% năm 1999, sau đó mới có xu hướng tăng trở lại và đạt 7,7% năm 2004. Tốc đọ tăng trưởng chưa tương xứng với tiềm năng dược nhìn nhận từ khía cạnh Việt nam là một nước nhỏ, đang trong giai đoạn đầu phát triển, có nhiều tiềm năng đạt được tốc độ tăng trưởng cao để có thể rút ngắn khoảng cách và đuổi kịp các nước đi trước. Động thái tăng trưởng của Việt Nam trong thời gian qua chưa tương xứng với tiềm năng vốn có. Tốc độ tăng trưởng như vậy là thấp hơn đáng kể so với các nước trong khu vực vào giai đoạn đầu tiến hành công nghiệp hoá, hoặc khôi phục kinh tế như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore đã từng đạt tốc độ tăng trưởng bình quân một năm trên dưới 10% trong vòng 1-2 thập kỷ. Trung Quốc là một nền kinh tế chuyển đổi giống Việt Nam, có tới hơn 1,3 tỷ dân và nông dân chiếm tới gần 70% dân số, nhưng nước này đã duy trì mắc tăng trưởng bình quân hàng năm đạt xấp xỉ 9% trong suốt 2 thập kỷ 1980 và 1990.