Đứng trước ngưỡng cửa của thế kỷ 21, theo xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế. Nền kinh tế nước ta đã đặt ra nhiều yêu cầu cấp bách phải đổi mới hệ thống quản lý kinh tế. Cùng với quá trình đổi mới đó, vấn đề mới dặt ra cho các doanh nghiệp là phải hoàn thiện bộ máy quản lý tổ chức ngay từ những yếu tố đầu vào đầu tiên. Do đó, vấn đề cung ưng dự trữ vật tư được rất nhiều doanh nghiệp quan tâm. Thực tế, ở nước ta trong hoàn cảnh chuyển. | Lượng vật tư tồn kho quá lớn dẫn đến lượng vật ư dự trữ là không cần thiết và hơn nữa nó còn là một phần tốn kém gây ứ đọng vật tư trong doanh nghiệp, Do Công ty là một thực thể hoạt động phân theo 6 chi nhánh và cửa hàng các nơi như BắcGiang, Hải Phòng , Hà Nọi. nên tình hình cung ứng vật tư chưa được sát sao,lượng vật tư cung ứngcòn quá so với kế hoạch , chưa có sự đoàn kết nhất trí chung trong phương hướng giải quyết và chỉ theo định hướng chung của tổng công ty. Lượng vật tư cung ứng không những khôngđược giải phóng mà còn tồn đọng một khối lượng quá lớn: hơn 30 triệu tấn mỗi năm làm lãng phí một nguồn vốn khá lớn trông doanh nghiệp năm 99 là hơn 86 tỷ đồng, nam 2000 hơn 87 tỷ và năm 2001 con số vốn tồn đọng là hơn 85 tỷ đồng. Con số này do nguyên nhân bất cập trong lượng vật tư cung số này nên tới hàng nghìn phàn trăm : lạm phát một lượng vật tư vượt xa so với kế hoạch. Nếu công ty không có chính sách tiết kiệm vật tư, hạn mức hợp lý sẽ là một nguyên nhân lớn gây kém hiệu quả kinh doanh trong doanh nghiêp và dự baó năm nay 2002 doanh nghiệp lạm phát một lượng vật tư là tấn và với một tỷ lệ 10378% so vói kế hoạch thực hiện.