Cùng với xu hướng phát triển của ngành y tế nói chung và Bệnh viện tai mũi họng nói riêng, khoa thính học chúng tôi từ 10 năm nay đã lần lượt đưa vào áp dụng một số kỹ thuật tiên tiến góp phần chẩn đoán nhanh, chính xác và điều trị rối loạn thính giác và các bệnh về tai như: đo điện kích gợi thính giác thân não (ABR - Auditory Brainstem Response), cấy điện ốc tai (CI - Cochlear Implant) và mới đây nhất là phương pháp đo điện truyền âm tai (OAE - Oto -. | Những kỹ thuật tiên tiến chữa bệnh ở tai Kỳ 1 Areỉ ot rain depíived ũf btocd Cùng với xu hướng phát triển của ngành y tế nói chung và Bệnh viện tai mũi họng nói riêng khoa thính học chúng tôi từ 10 năm nay đã lần lượt đưa vào áp dụng một số kỹ thuật tiên tiến góp phần chẩn đoán nhanh chính xác và điều trị rối loạn thính giác và các bệnh về tai như đo điện kích gợi thính giác thân não ABR - Auditory Brainstem Response cấy điện ốc tai CI - Cochlear Implant và mới đây nhất là phương pháp đo điện truyền âm tai OAE - Oto - acoustic Emission . Hai năm trở lại đây để chẩn đoán tổn thương tiền đình và các rối loạn thăng bằng chúng tôi đã ứng dụng phư ơng pháp đo điện động nhãn đồ bằng video. Đo điện kích gợi thính giác thân não ABR Đo đáp ứng điện thân não khi kích thích thính giác là một nghiệm pháp trong nhóm thử nghiệm khách quan đóng vai trò quan trọng trong việc đánh giá chức năng sau ốc tai. Nghiệm pháp này đo các điện thế xuất hiện sớm khoảng 8 -10 ms đầu trong điện thế thính giác ghi nhận được từ da đầu do hoạt động của các cấu trúc của cầu não. Ở người trưởng thành bình thường điện thế kích gợi thính giác thân não được ghi nhận có 7 sóng xuất hiện trong 10 ms đầu sau kích thích. Bảy sóng này được ký hiệu bằng số la mã từ I đến VII các sóng I II III IV và V thường xuất hiện ở người trưởng thành có sức nghe bình thường. Sóng VI xuất hiện 84 và sóng VII chỉ xuất hiện có 43 ở tai kích thích OMKA 1994 . Người bình thường cũng có nhiều dạng sóng khác nhau sóng IV và V thường là thành phần nổi bật nhất. Chẩn đoán xác định thường dựa vào sự thay đổi của một hay nhiều yếu tố. Trên thế giới nghiệm pháp này bắt đầu được sử dụng nhiều từ thập niên 1970. Ở Việt Nam nghiệm pháp này được thực hiện lần đầu tiên vào năm 1997. Từ khi thực hiện chúng tôi đã giải quyết được một số vấn đề khó có thể làm trước đây như chẩn đoán sớm thiếu hụt thính giác ở trẻ em nhỏ tuổi trẻ chậm phát triển tâm thần và chẩn đoán vị trí tổn thương cho các bệnh nhân điếc tiếp nhận. Hiện tại chúng .