Tham khảo tài liệu 'axit và kiềm - cẩm nang thực dưỡng (phần 4)', văn hoá - nghệ thuật, ẩm thực phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả | Chuang IV Âm và Dương - Sự tiếp cận của Phương Đông 1. Sagen Ishizuka - người sáng lập Y học Thực Dưỡng và ăn kiêng của Nhật Bác sĩ Sagen Ishizuka sinh ngày 4 tháng 2 năm 1851 tại quận Fukui trước khi Đô đốc Perry đến hải cảng Ưraga yêu cầu thiết lập quan hệ thương mại giữa Nhật và Mỹ. Ông là người thích nghiên cứú từ khi còn trẻ. Ông hiểu được tiêhg Hà Lan Pháp Đức và tiếng Anh ở tuổi 18. Mục đích nghiên cứu ngôn ngữ của ông không phải chỉ dừng lại ở nội dung ngôn ngữ. Ông nghiên cứu ngoại ngữ là để tìm hiểu về hoá học y học và thiên văn học qua ngôn ngữ. Khi sinh ra ông đã bị bệnh về da. Lên bốn tuổi ông bị bệnh Prurigo toàn thân lên năm tuổi bị bệnh thận cấp tính. Ông bị chết vì căn bệnh này ở tuổi 59. Bệnh về da của ông là do bệnh thận gây ra bệnh này lại do mẹ ông đã ăn quá nhiều cá và hương liệu trong thời kỳ mang thai ông. về sau ông nhận ra điều này qua y học Thực Dưỡng và ăn kiêng. Ông đã hình thành một nền y học độc đáo qua việc nghiên cứu về y học phương Đông của mình. 7 Axít 8e Kiềm Lúc sinh thời ông thường bị bệnh ngoài da. Năm 28 tuổi là bác sĩ quân y trong khi đang làm nhiệm vụ tại Seinan Senso ông lại bị bệnh sưng chân sưng mí mắt rất nặng và thải protein qua đường tiểu tiện nước tiểu nhiễm protein . Đến năm 32 tuổi bệnh thận lại tái phát rất nặng. Đến lúc này ông bắt đầu nghiên cứu sự liên quan giữa thực phẩm và bệnh tật. Thoạt tiên ông điều trị bệnh theo phưong pháp Tây Y cũng cần nói thêm rằng ông rất quan tâm đến việc nghiên cứu y học vì óng muôn điều trị căn bệnh mãn tính của mình. Sau khi phát hiện ra rằng y học phưong Tây không làm cho bệnh của ông thuyên giảm chút nào thì ông bắt đầu nghiên cứu y học phưong Đông. Sau khi nghiên cứu cả hai nền y học cuỗi cùng ông đã tìm thấy thực phẩm đích thực mang lại sức khoẻ cho người Nhật. Sách Nội Kinh viết Có ba loại thuốc thấp nhất là loại thuốc độc thứ hai là loại ít độc hơn và loại thứ ba là loại không độc hại. Loại thấp nhất chữa được sáu trong mười bệnh để lại độc tố cho bệnh nhân. Loại thứ hai .