Trong kiến trúc, vật liệu có thể gắn kết vật liệu hạt rơi (như cát) hoặc vật liệu cục (như gạch vỡ, đá, sỏi) thành một khối thống nhất, đều được gọi là vật liệu keo kết. Vật liệu keo kết căn cứ vào bản chất vật liệu được phân thành 2 loại: Vật liệu keo kết hữu cơ và vật liệu keo kết vô cơ. Với vật liệu keo kết vô cơ lại căn cứ vào điều kiện cứng hoá phân thành vật liệu keo kết cứng hoá khí và vật liệu keo kết cứng hoá nước. Vật liệu keo kết cứng hoá khí chỉ. | Sự đóng kết và cứng hoá của ximăng là một quá trình liên tục biến đổi lý hoá rất phức tạp. Các thành phần khoáng vật trong ximăng phân biệt phản ứng thuỷ hoá mà sinh thành sản phẩm thuỷ hoá có Calcium Silicate, hydroxit Calci, Calcium aluminate. Quá trình biến đổi được chỉ ra ở hình . Sau khi ximăng hoà trộn với nước, bề mặt các hạt xi phát sinh phản ứng thuỷ hoá, lúc này tốc độ sinh thành sản phẩm thuỷ hoá lớn hơn tốc độ khuếch tán của nó vào môi trường dung dịch xung quanh. Sản phẩm thuỷ hoá được sinh ra tụ tập quanh hạt ximăng, hình thành tầng đóng kết. Tuỳ thuộc vào phản ứng thuỷ hoá kéo dài mà sản phẩm thuỷ hoá không ngừng tăng lên, lớp đóng kết có thể được liên tiếp với một số điểm đóng kết nào đó, mà hình thành kết cấu mạng xốp, vữa mất đi tính lưu động, và một phần tính dẻo, quá trình biến đổi này là đóng kết sơ khai của ximăng. Tuỳ thuộc vào tác dụng không ngừng của áp lực màng thẩm thấu, mà lớp ngoài của hạt ximăng bị phá vỡ, phần ximăng bên trong lại nhanh chóng phản ứng với nước để sản sinh ra sản phẩm thuỷ hoá lớn hơn. Sản phẩm thuỷ hoá tiếp xúc lẫn nhau mà trở nên kết cấu mạng tương đối chặt chẽ lấp đầy các khe rãnh, vừa hoàn toàn mất đi tính dẻo, bắt đầu có cường độ nhất định, quá trình này là kết thúc quá trình đóng kết. Kết cấu màng của sản phẩm thuỷ hoá không ngừng được lấp đầy bởi sản phẩm mới mà kết cấu ngày càng chặt chẽ mịn, từ đó làm cho cường độ của ximăng không ngừng được nâng lên, tiến vào giai đoạn cứng hoá, cuối cùng hình thành đá ximăng có cường độ nhất định. Đá ximăng sau khi cứng hoá được tổ thành bởi