Anh hùng lao động, Thầy thuốc Nhân dân Giáo sư, Bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng sinh năm 1906, quê tại xã Mỹ Chánh (nay là xã Mỹ Hiệp), huyện Chợ Mới, tỉnh Long Xuyên (nay là tỉnh An Giang), còn có tên khác là Nguyễn Thành Tâm. Ông nội ông là thầy dạy chữ Nho, cha ông cũng học chữ Nho và kiêm luôn một ít nghề thuốc. Lúc ông lên 5 tuổi, mẹ ông mất vì dịch tả, ông nội và bà nội lần lượt qua đời. Cha ông đi làm ăn xa, nên từ năm 10 tuổi. | NGUYỄN VÃN HƯỞNG GIÁO SƯ BS NGUYỄN VĂN HƯỞNG 1906-1998 Anh hùng lao động Thầy thuốc Nhân dân Giáo sư Bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng sinh năm 1906 quê tại xã Mỹ Chánh nay là xã Mỹ Hiệp huyện Chợ Mới tỉnh Long Xuyên nay là tỉnh An Giang còn có tên khác là Nguyễn Thành Tâm. Ông nội ông là thầy dạy chữ Nho cha ông cũng học chữ Nho và kiêm luôn một ít nghề thuốc. Lúc ông lên 5 tuổi mẹ ông mất vì dịch tả ông nội và bà nội lần lượt qua đời. Cha ông đi làm ăn xa nên từ năm 10 tuổi ông đã phải sống tự lập. Ông theo học tiểu học tại Cần Thơ trung học tại Mỹ Tho và tú tài tại Sài Gòn. Năm 1927 ông học Trường Đại học Y khoa Hà Nội. Học xong 4 năm ở Hà Nội ông lại học tiếp 2 năm ở Paris và bảo vệ luận án tốt nghiệp năm 1932. Năm 1933 ông về nước và làm việc tại Viện Pasteur Sài Gòn trong 5 năm. Do bất bình trước thái độ phân biệt đối xử của người Pháp năm 1939 ông thôi việc và mở phòng mạch phòng xét nghiệm tại số nhà 224 đường Cống Quỳnh ngày nay - đây chính là phòng khám bệnh tư có kèm phòng xét nghiệm đầu tiên ở Sài Gòn. Sau Cách mạng tháng 8 ông là thành viên Hội đồng Cố vấn ủy ban Nhân dân Nam Bộ Trưởng ban Y tế và bào chế của Sở Y tế Nam Bộ. Sau ngày Nam Bộ kháng chiến 23 9 1945 ông tản cư về An Giang. Tháng 10 năm 1945 theo lệnh Uỷ ban Kháng chiến Nam Bộ ông về Mỹ Tho để tham gia công tác y tế cách mạng. Tại đây ông đã cùng đồng nghiệp chế tạo thành công huyết thanh chống uốn ván và nhiều loại vắc xin phòng bệnh. Trong Tổng tuyển cử 6 1 1946 ông trúng cử đại biểu Quốc hội khoá I của tỉnh Long Xuyên. Sau Hiệp định sơ bộ 6 3 1946 ông trở về Sài Gòn mở phòng mạch trở lại bình thường và tiếp tục tiếp tế thuốc men dụng cụ y tế và cứu chữa thương binh cho chiến khu. Ở Sài Gòn ông đã cùng Đặng Văn Trứ và cụ Lưu Văn Lang đại diện cho 200 nhà trí thức Sài Gòn ký vào bản tuyên ngôn ủng hộ Chính phủ kháng chiến chống Pháp. Năm 1947 ông trở ra khu kháng chiến là uỷ viên Uỷ ban Kháng chiến hành chính Nam Bộ kiêm Giám đốc Sở Y tế Quân dân Nam Bộ. Ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam .