Công nghệ sinh học cận đại: có sử dụng công nghệ trong quá trình chế biến sản phẩm như việc sử dụng các nồi lên men công nghiệp để sản xuất ở quy mô lớn các sản phẩm sinh hạt như mì chính, acid amin, acid hữu cơ, chất kháng sinh, vitamin, enzym | ngăn chận virut sinh sản và giết chết cãu tử virut virion còn tổn tại. CAy cũng khỏị bệnh nhưng kỹ thuật này ở đậy chi áp dụng đước cho một số loài hạn chế có một số ioạíịyvirut trú ngụ. Phân lỗn Các virút không truyồn qua hạt do đó ỉtửợtog đdỉ dễ giữ gìn một tình trạng vệ sinh thích hợp ở những cây sinh sản hữu tỉnh mặc dấu những trường hợp nhiễm bệnh sớm trên các cây nón cũng khó tránh và gậy thiệt hại như đối với củ cải lúa mạch cà chua . Ngược lại ồ thực vật sinh sản sinh dưỡng khoai tây củ mỡ - Dioscorèa alata sán mía chuối cây ăn quả nhiồu loại cây hoa . chỉ cẩn sơ suất chọn một cây mẹ bị bệnh là cho toàn bộ con cháu cũng bị bệnh. Chính vì vậy mà vào năm 1950 nhiêu Ịoạỉ cậy trổng có giá trị nCng nghiệp hay công nghiệp nhưng không sinh sản được bàng con đường hũfu tính đã bị một hay nhiểu loại vỉrut tần công. Việc sản xuất những cây này không những không kinh tế theo ý nghĩa nông học mà còn là những nguỗn lây nhiễm cho những giống hoặc những loài sạch bệnh. fl. Tữ chữa hệnh đẽ ri nhãn giếng trong õng nghiêm Sau khi . chữa khỏi bệnh chp cây thược dược việc thanh toán yirut ở những dòng cây có giá trị nông nghiệp đã dựợc áp dụng cho rẵt nhiều loài trên thế giới kể từ nãm 1955 điển hlnh là khoại tây. Năm 1954 phám chất vệ sinh cùa nó tổi tệ đến mức tưởng như phải bỏ. Tất cả những củ khoai tây tiêu thụ hiện nay ở Pháp đểu bát nguổn từ những cây sạch bệnh được nuôi cấy từ mô phân sinh trong Ống nghiệm thời đó. ỏ Việt Nam kỹ thuật 30 nuôi cấy in vitró cũng được ứng dụng vào việc nhân gìổng khoai tây áạeh bệnh. Nhiều loại cây khác cũng được chữa khôi bệnh nhờ kỹ thuật này như dau tây ngấy dâu cẩm chướng đuôi diêu cúc nhiéu loại lan nho mía chuổi củ mỡ khoai sọ táo tây . Ngày nay người ta cd thể cho ràng việc nuồi cấy mô phãn sinh có thể áp dụng cho mọi loại cây với điểu kiện đã xác định được thời điểm tốt nhất để lấy các mô phân sinh ngọn và môi trường nuôi cấy phù hợp. Nhưng việc nuôi cấy mô phàn sinh cũng không dừng ở đây mà đang làm đảò lộn việc .