Nhờ công nghệ này thay vì phải chờ đợi hàng tuần để có kết quả xét nghiệm về vi khuẩn lao thì nay công việc đó chỉ mất vài giờ thậm chí có thể sớm hơn nữa. | Phân tử mRNA Hình . Phương pháp chung để tạo DNA bổ cứu cDNA a Các tế bào tổng hợp protein như các tế bào tuỵ được giữ cẩn thận và mRNA được tách chiết ra từ những tế bào này b mRNA được xử lý với enzym transcriptase ngược. Enzym này sử dụng những mã base nitơ trong RNA để tổng hợp chuỗi bổ cứu của DNA. cDNA sau đó lại dùng để tổng hợp một chuỗi DNA bổ cứu với chuỗi thứ nhất. Theo .Edward Alcamo. DNA Technology the awesome Skill. Wm. c. Brown Publisher 1996. Để tạo được một gen để lồng vào tế bào người ta phải tạo ra các phân tử DNA chuỗi kép. Muốn hoàn tất quá trình này vòng xoắn nucleotid phải được đặt đúng chỗ khi đó phải dùng enzym DNA polymerase. Enzym này sử dụng nucleotid vòng như một chất mồi và di chuyển xuống phân tử DNA. Sử dụng phân tử này như một cái khuôn để tổng hợp phân tử DNA bổ cứu. Lúc này vòng xoắn được loại đi nhờ nuclease và kết quả là được một phân tử cDNA xoắn kép tương tự như gen mã hoá nguyên gốc phân tử mRNA. Tuy nhiên phân tử cDNA không có intron trong gen nguyên gốc thì vẫn có mà nó chỉ chứa các exon Hình . Để cho các cDNA có chức năng trong các tế bào nhận các phân tử này phải có khả năng tự nhân đôi. Dưới các điều kiện bình thường các đoạn DNA ngẫu nhiên không tái bản được trong tế bào sông. Lý do là enzym DNA polymerase chỉ được khởi động nếu có mặt một trình tự đặc biệt của các base là các gốc sao chép origin of replication . Mà các gốc sao chép lại được cung cấp bởi các DNA chất mang carrier nơi mà các cDNA gắn vào. Các chất mang carrier thường là các vec tơ. Sự LỰA CHỌN CÁC VEC Tơ Đối với các thí nghiệm công nghệ DNA thì các vec tơ thường được dùng là các plasmid. Plasmid là một DNA dạng vòng khép kín nằm ngoài NST. Đáng quan tâm là các plasmid của vi khuẩn Hình còn vối các tế bào nhân chuẩn như các tế bào động vật và thực vật thì không có plasmid. Chức năng của plasmid chưa được hiểu đầy đủ. Tuy nhiên các nhà khoa học xác nhận rằng plasmid không cần cho sự tồn tại của tế bào. Vào những năm 1970 các nhà khoa học Stanley