Biphosphonat là các thuốc tổng hợp có cấu trúc tương tự pyrophosphat vô cơ, một thành phần tạo nên xương. Các biphosphonat được chia thành hai nhóm lớn: nhóm biphosphonat không có amin (etidronat, clodronat, tiludronat) và nhóm các amino - biphosphonat (alendronat, pamidronat, ibandronat, risedronat, zoledronat. Biphosphonat là thuốc gì? Biphosphonat là các thuốc tổng hợp có cấu trúc tương tự pyrophosphat vô cơ, một thành phần tạo nên xương. Các biphosphonat được chia thành hai nhóm lớn: nhóm biphosphonat không có amin (etidronat, clodronat, tiludronat) và nhóm các amino - biphosphonat (alendronat, pamidronat, ibandronat, risedronat, zoledronat. . | Vai trò của thuôc biphosphonat trong điêu trị các bệnh lý xương khớp Biphosphonat là các thuôc tổng hợp có cấu trúc tương tự pyrophosphat vô cơ một thành phần tạo nên xương. Các biphosphonat được chia thành hai nhóm lớn nhóm biphosphonat không có amin etidronat clodronat tiludronat và nhóm các amino - biphosphonat alendronat pamidronat ibandronat risedronat zoledronat. Biphosphonat là thuôc gì Biphosphonat là các thuốc tổng hợp có cấu trúc tương tự pyrophosphat vô cơ một thành phần tạo nên xương. Các biphosphonat được chia thành hai nhóm lớn nhóm biphosphonat không có amin etidronat clodronat tiludronat và nhóm các amino - biphosphonat alendronat pamidronat ibandronat risedronat zoledronat. Đặc tính sinh học Biphosphonat đường uống hấp thu thấp qua đường tiêu hóa với tỷ lệ 3 . Sự hấp thu bị suy giảm nếu thuốc được sử dụng với thức ăn hay bia rượu. Xương hấp thu nhanh chóng 50 lượng biphosphonat đưa vào. Phần còn lại được thận bài tiết sau vài giờ. Hợp chất biphosphonat vẫn còn tồn tại nhiều tuần trên bề mặt xương trước khi chuyển hóa thành xương. Nó còn tồn tại trong xương nhiều năm và dần dần được bài tiết. Cơ chế tác dụng Cơ chế tác dụng của thuốc trên khung xương hiện nay đã được làm sáng tỏ. Đích tác dụng chung của các biphosphonat là các hủy cốt bào. Các thuốc này gắn kết chặt chẽ lên bề mặt khoáng hóa và được thực bào bởi các hủy cốt bào trong quá trình tiêu xương. Kết quả là các hủy cốt bào bị mất chức năng và chết theo chương trình. Biphosphonat làm giảm số lượng hủy cốt bào hoạt động ức chế sự gắn hủy cốt bào vào bè xương do mất bờ bàn chải kìm hãm hoạt tính của hủy cốt bào đang hoạt động do làm ức chế sản xuất men tiêu thể gây cảm ứng cho hiện tượng chất theo chương trình của hủy cốt bào. Ngoài ra các biphosphonat còn gián tiếp kích hoạt các tế bào tạo xương. Các thuốc này cho phép ngăn cản quá trình tiêu xương tức là làm giảm mất xương và khi làm tăng khoáng hóa xương thì làm tăng độ bền của xương. Bằng sự lấp đầy khoang tạo xương quá trình kháng hóa thứ