Sự ra đời của tiền tệ gắn liền với quá trình phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hóa. Trong thời kì đầu của chế độ cộng sản nguyên thủy, với công cụ sản xuất thô sơ, sản xuất chỉ nhằm tự cung tự cấp, khối lượng sản phẩm ít ỏi. Khi đời sống cộng động phát triển, ý thức phân công lao động được hình thành và lượng sản phẩm dư thừa làm nảy sinh quan hệ giao đổi giwuax các thị tộc | đô la hóa nguồn vốn huy động khiến các NHTM trong nước bị động về lãi suất. Lãi suất ngoại tệ trong nước và quốc tế ở đâu cao hơn, dòng tiền gửi ngoại tệ sẽ chảy đến đó. Nếu nhận thấy lãi suất tiền gửi trên thị trường quốc tế cao hơn, người gửi tiền sẽ rút tiền gửi ngoại tệ của mình ở ngân hàng trong nước để gửi ở ngân hàng nước ngoài. Trong trường hợp này, các ngân hàng trong nước có thể rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán. Để giữ được người gửi tiền, các ngân hàng buộc phải tăng lãi suất bằng ngoại tệ lên theo lãi suất quốc tế. Bên cạnh đó, những khách hàng đang gửi tiền bằng nội tệ khi nhận thấy lãi suất tiền gửi ngoại tệ đem lại lợi nhuận cao hơn, họ sẽ chuyển khoản tiền gửi của mình sang ngoại tệ. Vì vậy, cầu nội tệ trở nên bất ổn do nhạy cảm với sự thay đổi của lãi suất quốc tế. Lãi suất huy động nội tệ tăng lên, để đảm bảo lợi nhuận, các ngân hàng cũng phải tăng lãi suất cho vay nội tệ, từ đó làm gia tăng chi phí vốn cho các doanh nghiệp, dẫn đến sự gia tăng của giá cả hàng hóa trong nước, từ đó gây áp lực lên lạm phát.