Tham khảo tài liệu 'độ phì nhiêu của đất và dinh dưỡng cây trồng part 3', nông - lâm - ngư, nông nghiệp phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả | Tuy nhiên ở pH 5 mà hàm lượng Ap trong đất cao thường cũng làm cho cây bông con bị chết như ở Cheo Reo ở Đắc Lắc. Việc trổng bông ở đất Acrisols Ferralsols phải thận trọng. Ở dồng bằng phải bón phân liên tục pHKC cũng thay đổi từ 1975 đến 1985 ở Đông Hưng Thái Bình tỷ lệ đất có pH dưới 5 5 đã tăng từ 26 9 lên 56 7 . Theo Nguyên Tử Siêm 1995 phân tích 54 mẫu đất đỏ vàng phiến thạch của Thái Nguyên Vĩnh Phúc Hoà Bình. Thanh Hcá từ rừng chuyển sang trổng cây lương thực pHKC từ 5 1 1965 giảm còn 4 0 1994 . Điều tra của Bùi Huy Hiền 2001 cho biết 56 diện tích đất đồi núi có pHKC1 dưới 4. Vậy khi pH 3 sẽ rất hạn chế đối với nhiều loại cây trổng pH 3 - 4 hạn chế vừa pH 4 hạn chê ít. 2. Chất hữư cơ Nhiều năm chúng ta đều xác nhận mùn trong đất là một nguồn dinh dưỡng có tương quan rất chặt chẽ với độ phì nhiêu của đất nhất là trong điều kiện nhiệt đới nóng ẩm của nước ta. Dưới tác động của độ nhiệt và độ ẩm cao mùn bị phân giải nhanh chóng và bị rửa trôi dần dần đất rừng sau khi khai phá để trồng trọt thì chỉ số canh tác biểu hiện bằng mùn ở đất trồng trọt chỉ bằng 18 - 20 đất rừng. Theo Nguyễn Tử Siêm 1990 cà phê trên đất đỏ bazan Ferralsols muốn có năng suất ổn định phải có tỷ lệ 3 5 mùn trên đất đỏ vàng Acrisols phải có 2 5 mùn. 21 Tỷ lệ mùn tổng số trong đất rất khác nhau ở đất trung tính ít chua tỷ lệ axit humic tương đối so với axit fulvic cao hơn là ở đất chua ở đất macgalit Hòn Én Phủ Quỳ - Nghệ An pHKC thì trong lớp đất mật cacbon của axil humic là 21 so với tổng số cacbon của đất còn hàm lượng cacbon trong axit fulvic là 14 7 ở đất đỏ bazan cũng tại Phủ Quỳ có pHKC 4 5 thì tỷ lệ cacbon của axit humic chỉ 6 2 còn của axit fulvic là 37 4 trong tổng sô cacbon của đất Nếu diễn tả tỷ lệ axit humic so với axit fulvic bằng ký hiệu H F ở đất Macgalit -1 43 trong khi đó ở đất đỏ bazan 0 18 tức là chua nhiều. Những thành lựu về nghiên cứu mùn ở điều kiện nhiệt đới ẩm cùa Castagnol 1942 Fridland 1958-1964 Duchaufour 1968. đã được ghi nhận về sau Ngô Vãn Phụ 1970-1979 .