Chính sách huy động và sử dụng nguồn vốn . Thực trạng huy động vốn của nhà nước Nước ta cũng như bất kỳ một nước nào trên thế giới muốn thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá thì cần phải có vốn. Từ năm 1992 trở lại, nhờ thực hiện chính sách tài chính thắt chặt, Nhà nước đã chấm dứt được tình trạng phát hành tiền cho tiêu dùng của ngân sách, số thu không những đã bù đắp số chi thường xuyên mà còn dành ra một phần để tích luỹ đầu tư cho công nghiệp. | . Chính sách huy động và sử dụng nguồn vốn . Thực trạng huy động vốn của nhà nước Nước ta cũng như bất kỳ một nước nào trên thế giói muốn thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá thì cần phải có vốn. Từ năm 1992 trở lại nhờ thực hiện chính sách tài chính thắt chặt Nhà nước đã chấm dứt được tình trạng phát hành tiền cho tiêu dùng của ngân sách số thu không những đã bù đắp số chi thường xuyên mà còn dành ra một phần để tích luỹ đầu tư cho công nghiệp hoá hiện đại hoá. Nhưng nếu chỉ dùng số tiền tích luỹ đó thì sẽ không đủ để phát triển kinh tế. Do đó Nhà nước đã có những biện pháp để huy động vốn trong và ngoài nước. Việc huy động vốn trong nước bằng các hình thức tín phiếu trái phiếu tuy có phát triển song số vốn huy động được còn rất hạn chế và chủ yếu vẫn là nguồn vốn ngắn hạn chiếm 90 doanh số phát hành . Hình thức huy động vốn còn đơn điệu. Hình thức tín phiếu kho bạc với thời hạn dài 3 năm hầu như chưa nhận được sự hưởng ứng nhiệt tình của dân cư và chủ yếu là dùng biện pháp bắt buộc các doanh nghiệp phải mua. Tuy Nhà nước đã thiết lập được hệ thống ngân hàng hai cấp Ngân hàng Nhà nước quảnlý Nhà nước về tiền tệ tín dụng và ngân hàng thương mại làm nhiệm vụ kinh doanh tiền tệ trên nguyên tắc đi vay để cho vay. Nhưng tổng số vốn huy động trong dân cư bằng các hình thức qua kênh ngân hàng và ngân hàng như tín phiếu trái phiếu kho bạc tiền tiết đây mói chỉ đạt 8000 tỉ đổng năm chiếm khoảng 5 GDP và chủ yếu là nguồn vốn ngắn hạn. Như vậy nếu so với các nước cùng khu vực Đông Nam thì tỷ lệ vốn trong nước để đầu tư cho công nghiệp hoá hiện đại hoá của nước ta còn thấp. Nguyên nhân của tình hình trên là do một số chính sách tài chính tiền tệ hiện nay chưa tạo điều kiện và khuyến khích thoả đáng các doanh nghiệp tự đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh như chính sách thuế chế độ thu khấu hao. Các hình thức huy động vốn chưa được mở rộng. Người dân chưa thật tin tưởng vào sự ổn định kinh tế còn sự lạm phát khủng hoảng. Kế đến là Nhà nước chưa có nhiều .