Tuy nhiên Đêmôcrit đã không lý giải được nguồn gốc của vận động. Sau Đêmôcrit là Arixtốt (384 - 322 TCN) ông cho rằngvận động gắn liền với các vật thể với mọi sự vật, hiện tượng của giới tự nhiên. Ông cũng khẳng định vận động là không thể bị tiêu diệt "Đã có vận động và mãi mãi sẽ có vận động". Arixtốt là người đầu tiên đã hệ thống hoá các hình thức vận động thành 6 dạng: Phát sinh, tiêu diệt, thay đổi trạng thái, tăng, giảm, di chuyển vị trí . Tuy nhiên Arixtốt. | không trong nguyên tử là điều kiện vận động của nó. Tuy nhiên Đêmôcrit đ không lý giải được nguồn gốc của vận động. Sau Đêmôcrit là Arixtốt 384 - 322 TCN ông cho rằngvận động gắn liền với các vật thể với mọi sự vật hiện tượng của giới tự nhiên. Ông cũng khẳng định vận động là không thể bị tiêu diệt Đ có vận động và m i m i sẽ có vận động . Arixtốt là người đầu tiên đ hệ thống hoá các hình thức vận động thành 6 dạng Phát sinh tiêu diệt thay đổi trạng thái tăng giảm di chuyển vị trí . Tuy nhiên Arixtốt lại dơi vào duy tâm vì cho rằng thần thánh là nguồn gốc của mọi vận động. Tóm lại phép biện chứng thời cổ đại về căn bản là đúng nhưng chủ yếu mới dựa trên những phỏng đoán những trực kiến thiên tài. Phép biện chứng tự phát thời cổ đại đ nhìn thấy bức tranh chung của thế giới trong sự tác động liên hệ của các mặt đối lập song chưa đi sâu vào chi tiết của bức tranh. Vì vậy nó không tránh khỏi bị phủ định bởi phép siêu hình trong thời kỳ cận đại. . Phép biện chứng Tây Âu thế kỷ XIV - XVIII Suốt trong 4 thế kỷ từ thế kỷ XIV đến thế kỷ XVIII sự trưởng thành của tư tưởng biện chứng Tây Âu mang nhiều ý nghĩa độc đáo. Phép biện chứng trong thời kỳ này phát triển trong thời kỳ thống trị của tư duy siêu hình. Sau đêm trường Trung cổ triết học là thứ triết học kinh viện giáo điều gắn với đạo Thiên chúa. Đến thời kỳ Phục hưng triết học thời kỳ này đ khôi phục lại những tư tưởng duy vật cổ đại nhưng vẫn còn mang tính phiếm thần yếu tố duy vật xen lẫn duy tâm. Tuy nhiên phép biện chứng thời kỳ này vẫn có bước phát triển như tư tưởng về sự phù hợp của các mặt đối lập của Gioocdanơ Brunô 1548 -1600 . Theo mọi cái đều liên hệ với nhau và đều vận động kể từ các hạt vật chất nhỏ nhất - nguyên tử đến vô số thế giới của vũ trụ vô tận cái này tiêu diệt cái kia ra đời. Nếu không theo nguyên tắc các mặt đối lập phù hợp với nhau thì dù là nhà toán học nhà vật lý cả nhà triết học cũng không làm việc được. Một trong những đại biểu của triết học Tây Âu thời kỳ cận đại là 1561