Trong huyết thanh Ở các la-bô xét nghiệm thường quy, người ta thường dùng 4 phương pháp sau đây để phát hiện tự kháng thể lưu động: miễn dịch huỳnh quang (immunoflurescence), ngưng kết hồng cầu (hemagglutination), miễn dịch phóng xạ (hay miễn dịch enzym), và điện di ngược dòng (countercurrent electrophoresis). Mỗi phương pháp đều có ưu nhược điểm riêng. Miễn dịch huỳnh quang là kỹ thuật kém nhậy nhất trong số này, và kết quả phụ thuộc vào khả năng chủ quan của người đọc. Kỹ thuật ngưng kết hồng cầu có độ nhậy cao hơn nhưng. | CÁC KỸ THUẬT MIỄN DỊCH THƯỜNG DÙNG - PHẦN 3 . Phát hiện tự kháng thể . Trong huyết thanh Ở các la-bô xét nghiệm thường quy người ta thường dùng 4 phương pháp sau đây để phát hiện tự kháng thể lưu động miễn dịch huỳnh quang immunoflurescence ngưng kết hồng cầu hemagglutination miễn dịch phóng xạ hay miễn dịch enzym và điện di ngược dòng countercurrent electrophoresis . Mỗi phương pháp đều có ưu nhược điểm riêng. Miễn dịch huỳnh quang là kỹ thuật kém nhậy nhất trong số này và kết quả phụ thuộc vào khả năng chủ quan của người đọc. Kỹ thuật ngưng kết hồng cầu có độ nhậy cao hơn nhưng lại mất nhiều thời gian. Kỹ thuật miễn dịch phóng xạ radioimmunoassay RIA thì đòi hỏi sinh vật phẩm đắt tiền cần có máy đo tia gamma hoặc beta và trang bị xử lý chất thải cũng là những thứ rất tốn kém. Kỹ thuật miễn dịch enzym enzym-linked immunosorbent assay ELISA tránh được vấn đề tiếp xúc với tia phóng xạ nhưng lại đòi hỏi những dụng cụ rất chuyên biệt. Điện di miễn dịch ngược dòng thì rẻ và dễ làm nhưng tương đối kém nhậy. . Miễn dịch huỳnh quang gián tiếp Đây là kỹ thuật thường được dùng để phát hiện nhiều loại tự kháng thể trong huyết thanh. Người ta thường dùng mô động vật để làm cơ chất nếu kháng nguyên hiện diện chung trên cả mô người lẫn mô động vật. Còn những tự kháng thể chỉ giới hạn ở mô người hoặc thậm chí chỉ ở một dòng tế bào người thì chúng ta sẽ không dùng mô động vật được. Vật phẩm mô dùng cho xét nghiệm này được cho đông lạnh ngay sau khi lấy khỏi cơ thể con vật và khi dùng thì đưa máy cắt lạnh và cắt ở -200 C. Huyết thanh bệnh nhân được ủ với cơ chất mô trong 30 phút. Sau đó những kháng thể không gắn vào mô sẽ được rửa sạch trước khi cho kháng thể cấp 2 có gắn chất đánh dấu thường là huỳnh quang . Kháng thể đánh dấu sẽ liên kết với immunoglobutin của huyết thanh bệnh nhân đã gắn vào kháng nguyên trên cơ chất. Những vị trí có cố định kháng thể sẽ nhìn thấy được dưới kính hiển vi huỳnh quang Hình . Mỗi tự kháng thể sẽ được xác định bằng một kiểu .