Hội chứng thận hư (HCTH) là một hội chứng lâm sàng và thể dịch, xuất hiện ở nhiều bệnh có tổn thương cầu thận với các hình ảnh mô học khác nhau. Người ta phân biệt: - HCTH bẩm sinh - HCTH nguyên phát do cầu thận bị: . Tổn thương tối thiểu . Thoái hóa trong . Tăng sinh tế bào . Tổn thương màng đáy . Tổn thường màng tăng sinh . Xơ hóa. - HCTH thứ phát do tổn thương cầu thận trong các bệnh hệ thống, chuyển hóa: Lupus, đái tháo đường, nhiễm bột thận . | Hội chứng thận hư 1. Đại cương. . Định nghĩa Thận hư là hội chứng lâm sàng và sinh hoá được đặc trưng bởi protein niệu nhiều 3 5g 24giờ protein máu giảm 60g l albumin máu giảm 30g l lipit máu tăng và có phù. . Quan niệm về thuật ngữ Thuật ngữ thận hư nephrose do Muller Friedrich Von đưa ra từ năm 1905 để chỉ các bệnh lý ở thận có tính chất thoái hoá mà không phải do viêm. Năm 1913 Munk đưa ra thuật ngữ thận hư nhiễm mỡ để chỉ một nhóm triệu chứng gồm phù protein niệu giảm protein máu và tăng lipit máu đồng thời có hiện tượng nhiễm mỡ trong các tế bào ống thận trong khi các cầu thận gần như nguyên vẹn. Cùng thời gian đó 1914 Volhard F. và Fahr T. cho răng thận hư chỉ là một bệnh thoái hoá của ống thận. Từ đó thuật ngữ thận hư nhiễm mỡ được dùng để chỉ bệnh thận do nhiễm mỡ ở ống thận. Cho đến 1937 Epstein đề xướng giả thuyết cho răng thận hư nhiễm mỡ không phải là một bệnh ở thận mà là một tình trạng rối loạn chuyển hoá lipit của cơ thể. Quan điểm này được các nhà thận học thời gian đó ủng hộ rộng rãi và trong suốt thời gian dài nhiều tác giả gọi thận hư nhiễm mỡ là bệnh Epstein. Cho đến những năm 1950 nhờ có kính hiển vi điện tử người ta đã phát hiện ra những tổn thương trong bệnh thận hư nhiễm mỡ hoặc bệnh Epstein không phải là do nhiễm mỡ ở ống thận gây nên mà tổn thương mô bệnh học chủ yếu lại thấy ở cầu thận. Các nghiên cứu sau này cho thấy các triệu chứng của thận hư có thể gặp trong nhiều bệnh cầu thận tiên phát và thứ phát. Tổn thương thận cũng đa dạng mặc dù các biểu hiện lâm sàng và sinh hoá tương đối giống nhau. Vì vậy thận hư không phải là một bệnh đơn thuần như quan niệm trước kia cũng không phải do nhiễm mỡ ở ống thận hay do rối loạn chuyển hoá lipit gây n ên mà là biểu hiện của bệnh lý ở cầu thận do nhiều nguyên nhân khác nhau gây nên. Do đó đa số các nhà thận học đều thống nhất sử dụng thuật ngữ hội chứng thận hư . Một số tác giả vẫn còn giữ thuật ngữ thận hư nhiễm mỡ để chỉ thể bệnh thận hư đơn thuần có tổn thương tối thiểu minimal change .