IVM (TRƯỞNG THÀNH TRỨNG TRONG ỐNG NGHIỆM)

Nhiều trung tâm Hỗ trợ sinh sản đã áp dụng thành công kỹ thuật IVM. Trong IVM, trứng chưa trưởng thành được lấy ra từ buồng trứng chưa được kích thích, do đó thực hiện phương pháp này sẽ tránh được chi phí cao để chích gonadotropins, tác dụng phụ của thuốc và các nguy cơ khác, đặc biệt là hội chứng quá kích buồng trứng. | IVM TRƯỞNG THÀNH TRỨNG TRONG ỐNG NGHIỆM Nhiều trung tâm Hỗ trợ sinh sản đã áp dụng thành công kỹ thuật IVM. Trong IVM trứng chưa trưởng thành được lấy ra từ buồng trứng chưa được kích thích do đó thực hiện phương pháp này sẽ tránh được chi phí cao để chích gonadotropins tác dụng phụ của thuốc và các nguy cơ khác đặc biệt là hội chứng quá kích buồng trứng. Hơn nữa phương pháp này không cần theo dõi bằng siêu âm thử nội tiết nhiều lần và thời gian điều trị ngắn hơn so với thụ tinh ống nghiệm bình thường IVF . Các bệnh nhân phù hợp để làm IVM là những phụ nữ có buồng trứng đa nang buồng trứng có nhiều nang thứ cấp ngoài ra IVM còn có thể áp dụng cho các bệnh nhân có chất lượng phôi xấu nguyên phát trong nhiều chu kì điều trị và các bệnh nhân đáp ứng kém với kích thích buồng trứng KTBT . IVM còn có thể áp dụng thành công cho người cho trứng và những người cần bảo tồn khả năng sinh sản khi tuyến sinh dục bị ảnh hưởng do điều trị ung thư. Khi áp dụng cho phụ nữ độc thân IVM được kết hợp với kỹ thuật trữ lạnh trứng bằng thuỷ tinh hoá. Tỉ lệ thai lâm sàng của IVM trên mỗi chu kỳ là 38 ở phụ nữ 35 tuổi trở xuống và 50 ở người cho trứng Canada . Từ khi Louise Brown ra đời năm 1978 IVF đã phát triển rất nhanh và giúp ích nhiều cho những cặp vợ chồng vô sinh. Tuy vậy phương pháp này có nhiều bất lợi như chi phí cao bệnh nhân phải chích gonadotropin mỗi ngày tác dụng phụ của thuốc đi lại nhiều lần để siêu âm và quan trọng nhất là nguy cơ hội chứng quá kích buồng trứng . Hội chứng quá kích buồng trứng xảy ra ở 6 bệnh nhân nguy cơ cao làm IVF và có thể dẫn tới tử vong. Hội chứng này dễ xảy ra ở bệnh nhân trẻ có buồng trứng đa nang BTĐN . Biện pháp thích hợp để không có những bất lợi trên đồng thời vẫn có khả năng tạo được nhiều phôi là chọc hút trứng non từ buồng trứng chưa được kích thích cho trưởng thành trong điều kiện nhân tạo và cho thụ tinh trong ống nghiệm. Nghiên cứu về IVM đầu tiên là của Pincus năm 1935 sau đó được tiếp tục bởi Edwards năm 1965 và 1969. Tuy vậy em bé .

Không thể tạo bản xem trước, hãy bấm tải xuống
TỪ KHÓA LIÊN QUAN
TÀI LIỆU MỚI ĐĂNG
Đã phát hiện trình chặn quảng cáo AdBlock
Trang web này phụ thuộc vào doanh thu từ số lần hiển thị quảng cáo để tồn tại. Vui lòng tắt trình chặn quảng cáo của bạn hoặc tạm dừng tính năng chặn quảng cáo cho trang web này.