ĐẶC TRƯNG BỆNH THUỶ ĐẬU

Bệnh Thuỷ đậu là bệnh truyền nhiễm rất hay lây, do một loại virus gây ra. Bệnh đặc trưng bằng sốt, nổi ban kiểu nốt đậu ở da và niêm mạc. Bệnh được bởi Richard Morton bác sĩ người Anh thông báo lần đầu năm 1694 và được gọi là Chickenpox. | BỆNH THUỶ ĐẬU I. ĐỊNH NGHĨA Bệnh Thuỷ đậu là bệnh truyền nhiễm rất hay lây do một loại virus gây ra. Bệnh đặc trưng bằng sốt nổi ban kiểu nốt đậu ở da và niêm mạc. Bệnh được bởi Richard Morton bác sĩ người Anh thông báo lần đầu năm 1694 và được gọi là Chickenpox. II. TÁC NHÂN GÂY BỆNH Tác nhân gây bệnh là Herpes varicellae hay Varicella-Zostervirus VZV thuộc họ Herpesvirus được phân lập năm 1952. Sở dĩ virus có tên như trên vì khi người ta phân lập virus từ những bệnh nhân bị Thuỷ đậu và bệnh Zona Zoster thì thấy chúng hoàn toàn giống nhau. Theo giả thuyết của Hope-Símpon đưa ra năm 1965 thì Thuỷ đậu là đáp ứng miễn dịch tiên phát của ký chủ đối với virus còn bệnh Zona là do sự tái hoạt động của virus đã tồn tại trong cơ thể ở dạng tiềm tàng latent form ở các hạch của thần kinh cảm giác. III. DỊCH TỄ HỌC Bệnh Thuỷ đậu chỉ ở người. Mọi lứa tuổi đều có thể mắc nhưng 90 bệnh nhân là trẻ em 1-14 tuổi. Trẻ em 1tuổi và người lớn 19 tuổi chỉ 3 số bệnh nhân. Tuy nhiên ở các nước nhiệt đới tần suất bệnh ở người lớn thường cao hơn. Bệnh xảy ra khắp nơi trên thế giới đặc biệt ở những nơi dân cư đông đúc như nhà trẻ trường học khu tập Hoa Kỳ mỗi năm có khoảng 3 triệu trường hợp mắc bệnh Thuỷ đậu . Bệnh thường xảy ra vào cuối đông đầu xuân cao điểm là vào các tháng 3 - 5. Đường lây chủ yếu là đường hô hấp qua những bọt nước bắn ra từ người bệnh một số ít lây do tiếp xúc trực tiếp với nốt đậu. Thời gian lây bệnh bắt đầu 24 giờ trước khi có phát ban và kéo dài cho đến khi các nốt đậu đóng mày 7-8 ngày . Có thể bị nhiễm VZV mà không có biểu hiện lâm sàng. Thuỷ đậu gây miễn dịch vĩnh viễn sau khi bị nhiễm virus lần đầu chỉ có một tỷ lệ nhỏ bệnh nhân bị bệnh lần hai. IV. CƠ CHẾ BỆNH SINH Sau khi xâm nhập vào cơ thể theo đường hô hấp virus tăng sinh tại đây rồi đến hệ võng nội mô rồi đi vào máu đến gây tổn thương da và cơ quan nội tạng. Tại da và niêm mạc các tế bào đáy và tế bào gai của nội mạc vi quản ở lớp sừng bị phình to chứa nhiều dịch tiết đồng thời xuất hiện nhiều tế .

Không thể tạo bản xem trước, hãy bấm tải xuống
TỪ KHÓA LIÊN QUAN
TÀI LIỆU MỚI ĐĂNG
Đã phát hiện trình chặn quảng cáo AdBlock
Trang web này phụ thuộc vào doanh thu từ số lần hiển thị quảng cáo để tồn tại. Vui lòng tắt trình chặn quảng cáo của bạn hoặc tạm dừng tính năng chặn quảng cáo cho trang web này.