Để theo dõi danh sách các cluster đang chứa nội dung của một file của tất cả các file đang lưu trữ trên đĩa hệ điều hành DOS dùng Giáo trình phân tích giá trị dữ liệu tại một phần tử bảng FAT, hay còn gọi là bảng định vị file. Bảng FAT còn dùng để ghi nhận trong các cluster trên đĩa: còn ứng trên vùng dữ liệu trạng thái củabảng FAT tươngtrống, đã cấp phát cho các file, bị bad không thể sử dụng hay dành riêng cho hệ điều hành | Giáo trình phân tích giá trị dữ liệu tại một phần tử trong bảng FAT tương ứng trên vùng dữ liệu Khi cần ghi nội dung của một file vào đĩa hoặc khi cần đọc nội dung của một file trên đĩa hệ điều hành phải dựa vào bảng FAT nếu bảng FAT bị hỏng thì hệ điều hành không thể ghi đọc các file trên đĩa. Do đó hệ điều hành DOS tạo ra hai bảng FAT hoàn toàn giống nhau là FAT1 và FAT2 DOS sử dụng FAT1 và dự phòng FAT2 nếu FAT1 bị hỏng thì DOS sẽ sử dụng FAT2 để khôi phục lại FAT1. Điều không đúng với hệ thống file FAT32 FAT32 vẫn tạo ra 2 FAT như của DOS nhưng nếu FAT1 bị hỏng thì hệ điều hành sẽ chuyển sang sử dụng FAT2 sau đó mới khôi phục FAT1 và ngược lại. Hệ điều hành DOS tổ chức cấp phát động các cluster cho các file trên đĩa sau mỗi thao tác cấp phát thu hồi cluster thì hệ điều hành phải cập nhật lại nội dung cho cả FAT1 và FAT2. Có thể hệ điều hành chỉ thực hiện cấp phát động cluster cho các file dữ liệu có kích thước thay đổi còn đối với các file chương trình file thư viện file liên kết động . có kích thước không thay đổi thì hệ điều hành sẽ thực hiện cấp tĩnh cluster cho nó. Bảng FAT bao gồm nhiều phần tử điểm nhập mục vào các phần tử được đánh địa chỉ bắt đầu từ 0 để phân biệt địa chỉ cluster cũng có thể gọi là số hiệu của cluster. Giá trị dữ liệu tại một phần tử trong bảng FAT cho biết trạng thái của một cluster tương ứng trên vùng dữ liệu. Ví dụ phần tử thứ 7 trong bảng FAT chứa giá trị 000h giá trị này cho biết cluster thứ 7 trên vùng dữ liệu còn trống có thể dùng để cấp phát cho một file. Phần tử thứ 5 trong bảng FAT chứa giá trị FF7h giá trị này cho biết cluster thứ 5 trên vùng dữ liệu bị bad không thể cấp phát được . Hệ điều hành DOS có thể định dạng hệ thống file theo một trong 2 loại FAT làFAT12 và FAT16. Mỗi phần tử trong FAT12 rộng 12 bít byte mỗi phần tử trong FAT16 rộng 16 bít 2 byte . Các đĩa hiện nay thường được DOS định dạng theo hệ thống file với FAT16. Sau đây là danh sách các giá trị dữ liệu được chứa tại các phần tử trong bảng FAT số trong .