Nếu môi trường cung cấp đầy đủ Trp, ribosome trượt qua các codon Trp để đi vào vùng 2. Và sự có mặt của ribosome ở vùng 2 ngăn cản vùng này kết cặp với vùng 3. Khi đó vùng 3 sẽ cặp với vùng 4 và tạo ra điểm kết thúc phiên mã sớm (xảy ra sau khi tổng hợp xong 8 uridine ở ngay sau vùng 4). Khi số lượng tRNATrp đưa vào không đầy đủ, sự dịch mã đoạn dẫn đầu dừng lại đột ngột ở các codon Trp của nó (hình ). . | 149 nên sự dịch mã đoạn này tỏ ra nhạy cảm với số lượng tRNAtrp đưa vào. Nếu môi trường cung cấp đầy đủ Trp ribosome trượt qua các codon Trp để đi vào vùng 2. Và sự có mặt của ribosome ở vùng 2 ngăn cản vùng này kết cặp với vùng 3. Khi đó vùng 3 sẽ cặp với vùng 4 và tạo ra điểm kết thúc phiên mã sớm xảy ra sau khi tổng hợp xong 8 uridine ở ngay sau vùng 4 . Khi số lượng tRNATrp đưa vào không đầy đủ sự dịch mã đoạn dẫn đầu dừng lại đột ngột ở các codon Trp của nó hình . Điều này ngăn cản ribosome tiến vào vùng 2 do đó vùng này sẽ cặp với vùng 3 gây cản trở việc tạo thành cấu trúc phiên mã dở trp attenuator . Kết quả là phân tử mRNA đa cistron của operon tryptophan được tạo thành một cách đầy đủ. A Operon ở eukaryote - một ngoại lệ thú vị Khác với tất cả các eukaryote Caenorhabditis elegans và có lẽ cả một số giun tròn khác cũng có một tỷ lệ lớn các gene được tổ chức theo kiểu operon. Ở C. elegans ít nhất gene của nó chiếm khoảng 15 bộ gene có mặt trong các operon mỗi operon chứa từ 2 đến 8 gene. Giống như các prokaryote tất cả các gene trong một operon được phiên mã từ một promoter đơn sinh ra một bản sao sơ cấp đơn. Một số gene trong các operon này dường như có liên quan đến cùng chức năng sinh hoá như ở các prokaryote nhưng không phải là trường hợp cho tất cả. Các operon của C. elegans cũng khác với các operon ở prokaryote ở chỗ mỗi pre-mRNA được xử lý thành một mRNA riêng cho mỗi gene hơn là được dịch mã như một đơn vị Kimball 2004 . Sơ lược về sự điều hoà ở mức dịch mã Hiệu quả của sự khởi đầu dịch mã thường phụ thuộc vào trình tự giàu purine ở vùng 5 -UTR. Đó là 6-8 base thường gặp là AGGAGGU nằm ngay trước codon khởi đầu AUG của mRNA. Đoạn này bàm vào tiểu đơn vị ribosome bé và được và Austria xác định lần đầu tiên năm 1974. Vì vậy nó được gọi là trình tự Shine-Dalgarno Hình . Các tác giả này cho rằng hầu như có sự bổ sung chính xác giữa đoạn trình tự này ở đầu 5 của mRNA và vùng tương ứng ở đầu 3 của rRNA 16S. Điều đó phù .