Tham khảo bài viết 'đánh giá về tốc độ nền kinh tế đối ngoại của việt nam', tài liệu phổ thông, ôn thi đh-cđ phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả | Đánh giá về tốc độ nền kinh tế đối ngoại của Việt Nam Kinh tế đối ngoại đã đạt tốc độ tăng trưởng khá cao trong cả thập kỷ 90 mặc dù có sự giảm sút tốc độ từ năm 1999. Lý do cho sự tăng trưởng cao của các lĩnh vực kinh tế đối ngoại trên có thể là tương đối rõ nhưng lý do cho sự sụt giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế đối ngoại trong những năm gần đây còn có thể có những ý kiến khác nhau. Đúng là có lý do khách quan do suy giảm kinh tế toàn cầu và khu vực do giá hàng xuất khẩu của ta giảm nghiêm trọng. Tuy nhiên Trung Quốc cũng chịu tác động bởi những hoàn cảnh khách quan bên ngoài như nước ta nhưng cả giá trị xuất khẩu lẫn FDI vào Trung Quốc trong vài năm nay vẫn có mức tăng trưởng cao. Do vậy việc giảm tăng trưởng của cả giá trị xuất khẩu lẫn FDI vào nước ta trong thời gian qua không chỉ do nguyên nhân khách quan mà có thể lại do những nguyên nhân chủ quan là chính. Trong các nguyên nhân chủ quan đó có thể kể ra các nguyên nhân chính sau đây Trước hết đó là tình trạng bảo hộ mậu dịch không giảm đáng kể mà còn gia tăng. Mức thuế suất nhập khẩu bình quân đã được giảm từ trên 16 xuống còn trên 13 trong thời gian 1996 - 1998 nhưng đã tăng lên tới 16 vào năm 2001. Khung thuế nhiều và nhiều mặt hàng nhập khẩu còn chịu mức thuế cao chỉ có 20 số dòng thuế được áp dụng mức thuế dưới 5 . Việc hoàn thuế cho các hàng hoá nhập để xuất có quá nhiều thủ tục phức tạp phiền hà và kém hiệu lực. Các biện pháp phi thuế quan nhằm bảo hộ mậu dịch vẫn còn được áp dụng đối với nhiều lĩnh vực đặc biệt là sự quản lý của các bộ chuyên ngành. Hàng rào bảo hộ mậu dịch cao này tưởng như chỉ có tác dụng ngăn chặn các dòng hàng nhập khẩu nhưng trên thực tế chúng đã tác động tiêu cực tới toàn bộ hoạt động kinh tế đối ngoại. Vì khi đánh thuế cao vào các hàng hoá nhập khẩu giá bán của chúng và các hàng hoá liên quan ở trong nước đã tăng lên. Các nhà xuất khẩu phải sử dụng các hàng hoá giá cao này công nhân viên của họ cũng phải tiêu dùng các hàng hoá nhập khẩu giá cao mà mức cao giá này ước tính vào .