Chất dạng tinh bột đã được biết cách đây khoảng 300 năm, lúc đầu do nhà thực vật học người Đức - Matthias Schleiden đặt tên là amyloid vào năm 1838. Vào năm 1840, William Budd nh ận xét chất này vừa giống sáp lại vừa giống mỡ. Năm 1856, Vilks mô tả một bệnh nhân 51 tuổi có tổ chức mô như mỡ và cũng như sáp mà không do bệnh lý giang mai, lao, viêm t ủy xương. Một ca đầu tiên được Weber công bố có thoái hóa dạng tinh bột trên bệnh nhân đau tủy | CHỨNG THOÁI HÓA TINH BỘT VÀ BỆNH THẦN KINH NGỌAI BIÊN LÊ VĂN THÀNH Chất dạng tinh bột đã được biết cách đây khoảng 300 năm lúc đầu do nhà thực vật học người Đức - Matthias Schleiden đặt tên là amyloid vào năm 1838. Vào năm 1840 William Budd nhận xét chất này vừa giống sáp lại vừa giống mỡ. Năm 1856 Vilks mô tả một bệnh nhân 51 tuổi có tổ chức mô như mỡ và cũng như sáp mà không do bệnh lý giang mai lao viêm tủy xương. Một ca đầu tiên được Weber công bố có thoái hóa dạng tinh bột trên bệnh nhân đau tủy. Mãi đến năm 1927 Divry và Florkin nghĩ ra cách nhuộm tiêu bản não của một bệnh nhân Alzheimer bằng chất đỏ Công gô. MÔ HỌC HÌNH ẢNH VI THỂ Bằng các thuốc nhuộm khác nhau cho các màu sắc hơi khác nhau nhưng phương pháp dùng màu đỏ công gô nhuộm sẽ cho màu táo xanh. Chất dạng tinh bột xuất hiện đồng nhất và không có hình dáng khi soi trên kính hi ển vi dưới ánh sáng cực hóa. Muốn chẩn đoán chắc chắn cần phải tiến hành sinh thiết tổ chức có thần kinh. Dưới kính hiển vi ta thấy rõ sự lắng chất dạng tinh bột bởi các sợi kết tập với nhau các sợi có đường kính - 10nm không phân nhánh tiếp xúc với tế bào Schwann hoặc kế cận những mao quản các sợi có myelin nghèo nàn và hư biến trục. PHÂN LOẠI Có hai cách phân loại bệnh thoái hóa dạng tinh bột trong đó có cách thứ nhất chú ý tới vị trí thương tổn thần kinh có kết hợp với những biểu hiện bệnh lý của các tạng khác và cách thứ hai thì chia hai nhóm bệnh thần kinh ngoại biên gia đình và bệnh thần kinh ngoại biên phát lẻ tẻ. bảng 1 và 3 . Để phân biệt các loại bệnh thoái hóa dạng tinh bột người ta dựa trên kỹ thuật hóa miễn dịch mô để nhận dạng từng loại protêin đặc hiệu của chất dạng tinh bột - kháng huyết thanh đối với chất dạng tinh bột P giúp nhận dạng tất cả các loại bệnh thoái hóa dạng tinh bột khác nhau - kháng huyết thanh đối với chất dạng tinh bột trong thoái hóa dạng tinh bột nguyên phát AL K và - kháng huyết thanh đối với chất dạng tinh bột trong thoái hóa dạng tinh bột thứ phát AA - kháng huyết thanh đối với chất .