Quản trị mạng thường được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Một số người cho rằng đó là việc theo dõi các hoạt động trên mạng, thêm người dùng mới vào hệ thống, xóa người dùng không còn tồn tại trong cơ quan hay thực hiện việc phân quyền sử dụng các tài nguyên trên mạng như máy in, thư mục, truy cập Internet cho những người dùng trên mạng. | Giới thiệu Quản trị mạng thường được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Một số người cho rằng đó là việc theo dõi các hoạt động trên mạng thêm người dùng mới vào hệ thống xóa người dùng không còn tồn tại trong cơ quan hay thực hiện việc phân quyền sử dụng các tài nguyên trên mạng như máy in thư mục truy cập Internet cho những người dùng trên mạng. Một số người khác lại cho rằng đó là công việc nặng nhọc hơn phải thực hiện việc thêm vào các thiết bị mạng mới cài đặt thêm dịch vụ mới vào hệ thống làm cho tất cả các máy trong mạng đều vận hành tốt theo dõi lưu thông trên mạng bằng các chương trình mô phỏng . Theo ISO về mặt quan niệm quản trị mạng có thể được phân chia thành năm lĩnh vực sau o Quản lý hiệu suất mạng Performance management o Quản lý cấu hình Configuration management o Quản lý tài khoản Accounting manangement o Quản lý lỗi Fault management o Quản lý an ninh mạng Security management Quản lý hiệu suất mạng Performance management Mục đích của việc quản lý hiệu suất là đo đạt và đảm bảo sự hiện diện của các tiêu chí về hiệu suất mạng nhờ đó hiệu suất của liên mạng được duy trì ở mức có thể chấp nhận được. Các tham số để đo hiệu suất mạng có thể là thông lượng tổng của mạng network throughput thời gian đáp ứng người dùng . Quản lý hiệu suất mạng gồm 3 bước. Đầu tiên là các dữ liệu liên quan đến hiệu suất được thu thập dựa trên các tham số quan tâm của nhà quản trị mạng. Kế tiếp dữ liệu sẽ được phân tích để xác định được các mức độ bình thường baseline . Cuối cùng xác định các giá trị ngưỡng cho mỗi tham số quan trọng nhờ đó mỗi khi các giá trị này vượt quá giá trị ngưỡng thì xem như mạng đang có vấn đề cần lưu ý. Thông thường các phần mềm dùng để quản lý mạng cho phép thiết lập các cơ chế cảnh báo tự động khi nó phát hiện có sự vượt quá ngưỡng cho phép của một số tham số. Mỗi bước trong các bước được mô tả ở trên là một phần của tiến trình thiết lập hệ thống tự phản ứng. Khi hiệu suất trở nên không thể chấp nhận được vì có sự vượt quá các ngưỡng được