Chỉ số sinh học đánh chất lượng nước sử dụng động vật không xương sống thuận lợi hơn sử dụng các sinh vật khác, như dễ thu mẫu, ít quan tâm đến số lượng hoặc mối quan hệ với độ giàu có. Thêm vào đó, hầu hết các bộ đều dễ dàng nhận dạng, nhiều loài có khả năng chống chịu tốt với điều kiện ô nhiễm. | TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5 40 .2010 ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG NƯỚC SÔNG CẦU ĐỎ - TÚY LOAN Ở TP. ĐÀ NẴNG BẰNG HỆ THỐNG BMWPVIET ASSESSMENT ON THE WATER QUALITY OF THE CAU DO - TUY LOAN RIVER IN DA NANG CITY BY THE BMWPVIET SYSTEM Nguyễn Văn Khánh Phạm Thị Hồng Hà Đàm Minh Anh Trường Đại học Sư phạm Đại học Đà Nang TÓM TẮT Chỉ số sinh học đánh chất lượng nước sử dụng động vật không xương sống thuận lợi hơn sử dụng các sinh vật khác như dễ thu mẫu ít quan tâm đến số lượng hoặc mối quan hệ với độ giàu có. Thêm vào đó hầu hết các bộ đều dễ dàng nhận dạng nhiều loài có khả năng chống chịu tốt với điều kiện ô nhiễm. Tuy nhiên có sự khác biệt lớn dễ nhận thấy về chỉ số theo mùa và theo các vùng khác nhau là những vấn đề lớn cần xem xét về mặt phương pháp. Ngày nay trong công tác quan trắc môi trường nước quan trắc sinh học QTSH ngày càng trở nên quan trọng như là một phần bổ sung hoặc thay thế cho những phân tích hóa nghiên cứu này chúng tôi tiến hành thu mẫu nước và mẫu ĐVKXS cỡ lớn từ tháng 01 năm 2009 đến tháng 06 năm 2010 tại hệ thống sông Túy Loan - Cầu Đỏ thành phố Đà Nẵng. Kết quả nghiên cứu đã xác định được 20 họ thuộc 16 bộ và dưới lớp có 5 họ ĐVKXS cỡ lớn không nằm trong hệ thống điểm BMWPVIET. ABSTRACT Biological indices for assessing water quality basing on macroinvertebrates offer advantages over those using other organisms since it is easy to collect a macroinvertebrate sample with regard to qualitative measurements or relative abundance. In addition good identification keys are available for most orders and for many species there is an ample resistance concerning pollution tolerance. Nevertheless the pronounced seasonal and regional variability of some biotic indices constitute the greatest criticism against these methods. Nowadays with the monitoring of water environments biological monitoring has become more and more important since it can be used as a supplement or an alternative to chemical analyses. In this study the .