Giải phẩu: Trong trường hợp ung thư cổ tử cung (CTC), hystérectomie totale (HT) là phẩu thuật thích nghi, thường kèm theo phẩu thuật lấy các mô lân cận (paramètres) nằm giữa CTC và vách chậu, phối hợp với lấy các hạch vùng chậu Phẩu thuật hình nón cổ tử cung(connisation cervicale, cone biopsy) được chỉ định ở các ung thư CTC phát hiện sớm (I0, Ia). Ưu điểm cuả phẩu thuật nầy là cho phép bệnh nhân bảo tồn khả năng sinh con. Tuy nhiên bệnh ung thư có thể tái phát, do đó cần phải được theo dõi. | UNG THƯ CÔ TỬ CUNG - PHẦN 3 ĐIỂU TRỊ A- Các phương pháp điều trị I- Giải phẩu Trong trường hợp ung thư cổ tử cung CTC hystérectomie totale HT là phẩu thuật thích nghi thường kèm theo phẩu thuật lấy các mô lân cận paramètres nằm giữa CTC và vách chậu phối hợp với lấy các hạch vùng chậu A. Hystérectomie subtotals B Hystérectomie totale c. Hysté-ectomie totals avec annexectomie Phẩu thuật hình nón cổ tử cung connisation cervicale cone biopsy được chỉ định ở các ung thư CTC phát hiện sớm I0 Ia . Ưu điểm cuả phau thuật nầy là cho phép bệnh nhân bảo tồn khả năng sinh con. Tuy nhiên bệnh ung thư có thể tái phát do đó cần phải được theo dõi Pap test mỗi 3 tháng trong vòng một năm và sau đó mỗi 6 tháng. Phẩu thuật cắt bỏ cổ tử cung và phần đáy âm đạo radical trachelectomy thường được chỉ định ở ung thư CTC Ib Ila nhỏ hơn 4 cmvà ở những bệnh nhân muốn bảo tồn khả năng sinh lần sinh đẻ sau nầy phải bằng césarien. II- Ngoại xạ trị radiothérapie externe Theo JM Andrieu P Colonna Ed. ESTEM Paris 1997 xạ trị bằng photons với năng lượng cao 10-15MV phát xuất từ máy gia tốc thẳng accélérateur linéaire là tốt nhất. Vùng xạ trị là vùng chậu lớn có hình viên kim cương. Giới hạn trên là L4-L5 giới hạn ngoài là 2cm ngoài xương chậu giới hạn dưới xác định bởi khám âm đạo. Nếu liều xạ trị cao hơn 30 Gy nên dùng kỷ thuật 4 vùng nhỏ. Vùng xạ trị có thể thay đổi tùy theo bối cảnh lâm sàng Có thể thu nhỏ nếu cần tập trung vào một vùng đặc biệt như vào các vùng hạch vùng CTC hoặc cả 2 cùng lúc. Củng có thể mở rộng vùng xạ trị như trường họp cần xạ tri vùng chậu kết hợp với xạ trị các hạch lombo-aortiques. Liếu lượng thông thường khoảng 2 Gy cho mỗi lần xạ trị 5 lần mỗi tuần. Ở những bệnh nhân có tổng trạng suy yếu như hậu phẩu hoặc xạ trị vùng rộng nên giảm liều xuống khoảng 1 8 Gy cho mỗi lần. Tổng lượng liều xạ trị tùy thuộc mục đích điều trị trị lành bệnh trị thuyên giảm xạ trị đơn độc hay phối hợp với phẩu thuật. Cần biết liều xạ trị tùy thuộc độ lớn của ung thư tuy nhiên để có .