Lý do ứng dụng Luật so sánh trong quá trình xây dựng Luật sở hữu trí tuệ Luật so sánh được công nhận là công cụ đắc lực trợ giúp cho hoạt động lập pháp và sửa đổi pháp luật, giải thích pháp luật, hiểu các quy định pháp luật và hỗ trợ cho sự thống nhất, hài hoà hoá pháp luật. | Ứng dụng của luật so sánh trong xây dựng luật sở hữu trí tuệ năm 2005 1. Lý do ứng dụng Luật so sánh trong quá trình xây dựng Luật sở hữu trí tuệ Luật so sánh được công nhận là công cụ đắc lực trợ giúp cho hoạt động lập pháp và sửa đổi pháp luật giải thích pháp luật hiểu các quy định pháp luật và hỗ trợ cho sự thống nhất hài hoà hoá pháp luật 1 . Trong quá trình xây dựng Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 của nước ta sau đây gọi là Luật sở hữu trí tuệ 2 Luật so sánh cũng đã chứng tỏ vai trò đặc biệt quan trọng của nó. Việc thông qua Bộ luật dân sự Bộ luật dân sự sửa đổi 3 và Luật sở hữu trí tuệ trong năm 2005 đã đánh dấu thành công trong hoạt động đổi mới hệ thống pháp luật thể hiện thành công của tiến trình hoàn thiện pháp luật sở hữu trí tuệ nước ta. Trong bài viết này tác giả bàn về vấn đề ứng dụng của Luật so sánh trong quá trình xây dựng Luật sở hữu trí tuệ bằng việc giải quyết ba câu hỏi Tại sao phải ứng dụng Luật so sánh trong quá trình xây dựng Luật sở hữu trí tuệ Luật so sánh được ứng dụng như thế nào trong quá trình xây dựng Luật sở hữu trí tuệ Việc ứng dụng Luật so sánh trong quá trình xây dựng Luật sở hữu trí tuệ đem lại những kết quả ra sao Cho đến nay còn nhiều ý kiến khác nhau về Luật so sánh tuy nhiên cho dù Luật so sánh là một môn khoa học hàn lâm hay một phương pháp nghiên cứu mọi người đều thừa nhận rằng Luật so sánh có tính ứng dụng rất cao bao gồm ứng dụng trong hoạt động lập pháp 4 . Việc ứng dụng Luật so sánh trong quá trình xây dựng Luật sở hữu trí tuệ xuất phát từ những lý do sau đây - Xuất phát từ đặc trưng của pháp luật trí tuệ Pháp luật sở hữu trí tuệ điều chỉnh các quan hệ liên quan đến tài sản trí tuệ với đặc tính vô hình lan toả dễ dàng vượt qua biên giới quốc gia. Chính điều này làm cho pháp luật sở hữu trí tuệ mang đậm tính chất quốc tế hơn so với nhiều lĩnh vực pháp luật khác. Để bảo hộ quyền sở hữu trí tụê đòi hỏi pháp luật của mỗi quốc gia phải tương thích với các điều ước quốc tế và pháp luật của các quốc gia khác. Bởi vậy khi xây .