Giới thiệu hội chứng Sjögren Năm 1933, Henrik Sjögren, một bác sĩ nhãn khoa người Thủy Điển phát hiện một bệnh, bao gồm viêm kết giác mạc khô, khô miệng và viêm khớp dạng thấp. Quan sát này xuất hiện sau báo cáo của Gougerot vào năm 1926 mô tả kết hợp giữa khô miệng với chứng khô kết mạc, âm đạo, niêm mạc mũi, có thể là rối loạn nội tiết. Hiện nay, định nghĩa này thay đổi do sự kết hợp có thể với các bệnh hệ thống khác như viêm khớp dạng thấp, nhưng khô miệng. | 1 r r Ầ - Ầ J J 1 Xu hướng mới vê điều trị măt trong hội chứng Sjogren Giới thiệu hội chứng Sjogren Năm 1933 Henrik Sjogren một bác sĩ nhãn khoa người Thủy Điển phát hiện một bệnh bao gồm viêm kết giác mạc khô khô miệng và viêm khớp dạng thấp. Quan sát này xuất hiện sau báo cáo của Gougerot vào năm 1926 mô tả kết hợp giữa khô miệng với chứng khô kết mạc âm đạo niêm mạc mũi có thể là rối loạn nội tiết. Hiện nay định nghĩa này thay đổi do sự kết hợp có thể với các bệnh hệ thống khác như viêm khớp dạng thấp nhưng khô miệng vẫn luôn là yếu tố cơ bản nhất của chẩn đoán. Không phải chỉ là dấu hiệu phụ khô mắt gây nên cảm giác rát bỏng mắt đau mắt viêm giác mạc nông giảm thị lực thậm chí còn làm đục giác mạc. Khô mắt cùng với khô miệng suy nhược làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng cuộc sống. Điều trị khô mắt bao gồm sử dụng kéo dài nước mắt nhân tạo để làm ẩm mắt và bôi trơn giác mạc. Tuy nhiên chưa có điều trị nguyên nhân nên các thuốc này chỉ có tác dụng một phần. Thậm chí là triệu chứng bệnh còn nặng lên do dùng thuốc không thích hợp có thể còn gây ngộ độc. Điều thiết yếu để điều trị có hiệu quả bệnh lý bề mặt giác mạc là hiểu sâu cơ chế thăm khám kỹ hơn và điều trị thích hợp trong từng trường hợp cụ thể. Cơ sở sinh lý của chứng khô mắt trong hội chứng Sjogren Kinh điển hội chứng Sjogren là một bệnh tự miễn đích thực của các tuyến ngoại tiết trong đó tuyến lệ chính bị thâm nhiễm viêm sau đó xơ hóa dần dần. Tuy nhiên sự thâm nhiễm lympho bào và quá trình xơ hóa không giải thích toàn bộ sự cạn nước mắt bởi vì người ta chứng minh rằng dù có cả vùng lớn của tuyến chưa bị viêm nhưng tuyến lệ vẫn mất khả năng bài tiết nước mắt. Sự thiếu hụt bài tiết này có thể giải thích bởi sự chẹn chi phối thần kinh các tuyến còn nguyên vẹn và thâm nhiễm lan tỏa tuyến bởi các cytokin tiền viêm. Ở mắt bệnh tự miễn dịch còn làm cho tất cả bề mặt kết mạc thấm các chất trung gian hóa học gây viêm. Hoạt hóa tại chỗ hệ thống miễn dịch đặc trưng bởi thâm nhiễm kết mạc bởi tế bào viêm thay .