Tại sao phải đánh giá hiệu lực thuốc ? Khi điều trị bệnh sốt rét, các cơ sở y tế thường sử dụng các loại thuốc đặc hiệu theo phác đồ quy định của Bộ Y tế. Thuốc điều trị ưu tiên (first line) được chỉ định sử dụng Dihydroartemisinin-Piperaquine (biệt dược là Arterakine hoặc CV Artecan) dùng 3 ngày và Primaquin dùng liều duy nhất nếu bị nhiễm sốt rét do Plasmodium falciparum; sử dụng Chloroquin dùng 3 ngày và Primaquin dùng 14 ngày nếu bị nhiễm sốt rét do Plasmodium vivax. Theo hướng dẫn, trong quá trình. | Yêu câu đánh giá hiệu lực thuôc sôt rét khi điêu trị Tại sao phải đánh giá hiệu lực thuôc Khi điều trị bệnh sốt rét các cơ sở y tế thường sử dụng các loại thuốc đặc hiệu theo phác đồ quy định của Bộ Y tế. Thuốc điều trị ưu tiên first line được chỉ định sử dụng Dihydroartemisinin-Piperaquine biệt dược là Arterakine hoặc CV Artecan dùng 3 ngày và Primaquin dùng liều duy nhất nếu bị nhiễm sốt rét do Plasmodium falciparum sử dụng Chloroquin dùng 3 ngày và Primaquin dùng 14 ngày nếu bị nhiễm sốt rét do Plasmodium vivax. Theo hướng dẫn trong quá trình điều trị nếu điều trị thất bại có thể chuyển sang sử dụng thuốc điều trị thay thế second line . Chủng loại ký sinh trùng sốt rét Plasmodium falciparum thường có khả năng kháng lại với thuốc điều trị vì vậy trong chỉ đạo của Bộ Y tế cần đánh giá hiệu lực của thuốc điều trị sốt rét đối với chủng loại ký sinh trùng này để có chỉ định việc dùng thuốc điều trị thay thế. Muốn biết việc điều trị bằng thuốc điều trị ưu tiên first line đã sử dụng bị thất bại hay không để có chỉ định dùng thuốc điều trị thay thế second line cần phải đánh giá tác dụng hiệu lực thuốc theo quy trình. Phương pháp đánh giá này tương đối đơn giản nếu tại cơ sở y tế có kính hiển vi quang học với trang thiết bị dụng cụ hóa chất xét nghiệm đồng bộ và kỹ thuật viên được đào tạo theo kỹ thuật yêu cầu. Phương pháp đánh giá hiệu lực thuốc Để đánh giá hiệu lực thuốc bảo đảm yêu cầu cần chọn bệnh nhân có tiêu chuẩn chỉ nhiễm đơn thuần một chủng loại ký sinh trùng sốt rét Plasmodium falciparum mật độ ký sinh trùng trong máu từ đến ký sinh trùng thể vô tính trophozoite trên một micro-lít máu nhiệt độ của cơ thể đo được ở nách 3 37 5oC hoặc đo được ở miệng hay hậu môn 3 38oC và người bệnh có thể uống được thuốc. Cần loại trừ những bệnh nhân có những dấu hiệu nguy hiểm của sốt rét nặng và sốt rét ác tính do bị nhiễm ký sinh trùng sốt rét Plasmodium falciparum. Không chọn bệnh nhân bị nhiễm phối hợp nhiều chủng loại ký sinh trùng nhiễm đơn thuần các loại .