Năm 1655, Robert Hooke là người đầu tiên đưa ra khái niệm tế bào. Ông cho rằng tế bào là những khoang nhỏ trong đó có chứa đầy đủ các bào quan đảm bảo cho sự sống của một tế bào và cơ thể. | Chương 1 Những đặc điểm cơ bản của màng tế bào Lịch sử nghiên cứu màng tế bào - Năm 1655 Robert Hooke là người đầu tiên đưa ra khái niệm tế bào. Ông cho rằng tế bào là những khoang nhỏ trong đó có chứa đầy đủ các bào quan đảm bảo cho sự sống của một tế bào và cơ thể. XT - 1 f l l i A 1 T T I 11 1 Ấ Năm 1674 Anthoni Van Leeuwenhoek đã chế ra một chiếc kính hiển vi quan sát thấy nút bấc có nhiều hình nhất định cũng như thấy nhiều loại tế bào nguyên sinh động vật có loại chuyển động nhanh. Ông quan sát thấy các vi sinh vật nhỏ bé thậm chí cả hồng cầu và đưa ra khái niệm về cơ thể loại đơn bào và cơ thể loại đa bào và về sau Schleiden và Theo Dor Schwan 1835 - 1839 đưa ra khái niệm về tế bào và mô tissue là gồm nhiều tế bào cùng chức năng kết hợp. Các mô có sự biệt hoá chịu trách nhiệm riêng nhưng đều chứa nhiều tế bào. Tế bào dù đơn bào hay đa bào vẫn có một màng để ngăn cách tế bào với môi trường xung quanh. - Từ 1880 tức là hơn 200 năm sau quan niệm của Robert Hooke việc nghiên cứu tế bào mới trở nên phổ biến hơn. Nageli quan sát thấy khả năng di chuyển của vật chất qua màng tế bào sống rất khó khăn nhưng ở những tế bào bị chết hoặc bị tổn thương các chất ở môi trường dễ dàng xâm nhập vào tế bào. Do đó nhờ có tính thấm chọn lọc của lớp màng bảo vệ đặc biệt tế bào có thể duy trì cân bằng cho hoạt động sống. Trong các năm cuối thế kỷ XIX Pfefer đã tiến hành thí nghiệm đo sự thẩm thấu của màng tế bào và đưa ra hai kết luận quan trọng Tế bào được bao bởi một lớp màng đặc biệt gọi là màng sinh chất cytoplasmic membrane . Màng này là hàng rào vạn năng chỉ cho nước đi qua trong khi các chất điện ly muối khoáng và các chất tan đi qua một cách chọn lọc và khó khăn. - Năm 1889 Overton nhận thấy tốc độ di chuyể n những chất không phân cực dung môi hữu cơ .