Đề thi môn luật tố tụng dân sự (kèm lời giải) - Đề 11.2

Anh A và chị B kết hôn năm 1996 có điều kiện kết hôn và sinh sống tại phường T quận Y Thành Phố Hà Nội. Hai vợ chồng có tài sản chung là hai căn nhà tại phường M, quận N; phường P, quận X, thành phố Hà Nội và 3 tỷ đồng. | Hai là, tại thời điểm toà án thụ lý vụ việc Ly hôn của chị B, chị B vẫn ở Việt Nam, trường hợp này sẽ không có dấu hiệu đương sự ở nước ngoài theo quy định tại khoản 3 điều 33, tuy nhiên chị B chỉ về phép trong 2 tuần sau đó lại tiếp tục sang học tập tại Úc, mà thời hạn tiến hành giải quyết vụ việc dân sự lại kéo dài hơn hai tuần (chỉ riêng thời gian chuẩn bị xét xử đã là 4 tháng kể từ ngày thụ lý vụ án – theo khoản 1 điều 179 BLTTDS) nên trong quá trình giải quyết vụ việc ly hôn giữa hai anh chị, chị B không thể có mặt tại Việt Nam trong suốt quá trình giải quyết. Do đó có thể cần phải tiến hành một hoặc một số hoạt động TTDS ở nước ngoài mà Toà án Việt Nam không thể thực hiện được (như cần phải uỷ thác tư pháp lấy lời khai của đương sự ở nước ngoài qua con đường ngoại giao ). Điều này đòi hỏi người xét xử phải nắm vững pháp luật trong nước, am hiểu Luật quốc tế, Điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia, mà những việc này nếu giao cho TAND Huyện sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Cho nên cũng có thể coi trường hợp này có dấu hiệu của khoản 3 điều 33 (cần uỷ thác tư pháp cho toà án nước ngoài) nên cũng sẽ không thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND quận Y.

Không thể tạo bản xem trước, hãy bấm tải xuống
TỪ KHÓA LIÊN QUAN
TÀI LIỆU MỚI ĐĂNG
12    20    1    23-11-2024
24    17    1    23-11-2024
Đã phát hiện trình chặn quảng cáo AdBlock
Trang web này phụ thuộc vào doanh thu từ số lần hiển thị quảng cáo để tồn tại. Vui lòng tắt trình chặn quảng cáo của bạn hoặc tạm dừng tính năng chặn quảng cáo cho trang web này.