Các hệ cơ sở dữ liệu (hệ CSDL) đầu tiên được xây dựng theo các mô hình phân cấp và mô hình mạng, đã xuất hiện vào những năm 1960, được xem là thế hệ thứ nhất của các hệ quản trị cơ sở dữ liệu (hệ QTCSDL). Tiếp theo là thế hệ thứ hai, các hệ QTCSDL quan hệ, được xây dựng theo mô hình dữ liệu quan hệ do . Codd đề xuất vào năm 1970. Các hệ QTCSDL có mục tiêu tổ chức dữ liệu, truy cập và cập nhật những khối lượng lớn dữ liệu một cách thuận. | Giá trị tương đối của các hệ số chi phí đặc trưng cho môi trường CSDL phân tán. Topo mạng có ảnh hưởng rất lớn đến tỷ số giữa các thành phần này. Trong mạng WAN như Internet, thời gian truyền thường là hệ số chiếm đa phần. Tuy nhiên trong các mạng LAN thì các hệ số thành phần cân bằng hơn. Những nghiên cứu ban đầu đã chỉ ra rằng tỷ số giữa thời gian truyền và thời gian xuất nhập một trang vào khoảng 20:1 đối với mạng WAN, đối với các mạng Ethernet điển hình (10Mbds) thì vào khoảng 1:1,6. Vì thế phần lớn các hệ DBMS phân tán được thiết kế trên các mạng WAN đều bỏ qua chi phí xử lý cục bộ và tập trung vào vấn đề cực tiểu hóa chi phí truyền. Ngược lại các DBMS phân tán được thiết kế cho mạng LAN đều xét đến cả ba thành phần chi phí này. Các mạng nhanh hơn cả mạng WAN lẫn mạng LAN đã cải thiện các tỷ lệ nêu trên thiên về chi phí truyền khi tất cả mọi thứ khác đều như nhau. Tuy nhiên thời gian truyền vẫn là một yếu tố chiến đa phần trong các mạng WAN như Internet bởi vì dữ liệu cần phải được di chuyển đi đến các vị trí xa hơn.