Phan Huy Thực (Mậu Tuất 1778-Giáp Thìn 1844) Danh sĩ đời Gia Long, tự Vị Chỉ, hiệu Khuê Nhạc, con Phan Huy Ích, em Phan Huy CHú, sinh ngày 5-10 Âm lịch Mậu Tuất (24-11-1778). Quê xã Thu Hoạch, huyện Thiên Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Trong đời Lê mạt, ông làm Hiệp trấn Lạng Sơn, sau thăng Thượng thư bộ Lễ. Có đi sứ nhà Thanh (Trung Quốc) trong năm 1817. Đến năm 1841 ông về hưu được vua Thiệu Trị tặng thơ và tiền thưởng. Ngày 12-2 Âm lịch Giáp Thìn (30-3-1844) ông mất, thọ 66 tuổi, liệt thờ. | Phan Huy Thực Mậu Tuất 1778-Giáp Thìn 1844 Phan Huy Thực Mậu Tuất 1778-Giáp Thìn 1844 Danh sĩ đời Gia Long tự Vị Chỉ hiệu Khuê Nhạc con Phan Huy Ích em Phan Huy CHú sinh ngày 5-10 Âm lịch Mậu Tuất 24-11-1778 . Quê xã Thu Hoạch huyện Thiên Lộc tỉnh Hà Tĩnh. Trong đời Lê mạt ông làm Hiệp trấn Lạng Sơn sau thăng Thượng thư bộ Lễ. Có đi sứ nhà Thanh Trung Quốc trong năm 1817. Đến năm 1841 ông về hưu được vua Thiệu Trị tặng thơ và tiền thưởng. Ngày 12-2 Âm lịch Giáp Thìn 30-3-1844 ông mất thọ 66 tuổi liệt thờ vào đền Hiền Lương. Làng Ninh Sơn cũng có am thờ ông Các tác phẩm của ông - Hoa thiều tạp vịnh - Tì bà hành diễn âm - Nhân ảnh vấn đáp Phan Thanh Giản Bính Thìn 1796 - Đinh Mão 1867 Phan Thanh Giản Bính Thìn 1796 - Đinh Mão 1867 Danh sĩ Đại thần triều Nguyễn tự Tĩnh Bá Đạm Như hiệu là Lương Khê và Ước Phu biệt hiệu Mai Xuyên. Quê làng Bảo Thạnh huyện Bảo An tỉnh Vĩnh Long nay là xã Bảo Thạnh huyện Ba Tri tỉnh Bến Tre. Đậu cử nhân năm 1825 năm 1826 đậu tiến sĩ ông là người đạt học vị cao nhất đầu tiên ở Nam Kỳ. Năm 1862 ông cùng với Lâm Duy Hiệp đại diện cho triều đình Tự Đức kí Hòa ước Nhâm Tuất 5-6-1862 giao 3 tỉnh miền Đông Nam Kì cho Pháp. Năm 1863 ông được cử làm Chánh sứ Phó sứ Phạm Phú Thứ và Nguỵ Khắc Đản sang Pháp thương nghị chuộc 3 tỉnh miền Đông Nam Kì. Năm 1867 quân Pháp đánh chiếm ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ trong lúc ông đang nhậm chức Kinh lược sứ. Thấy tình thế không chống cự nổi ông nộp thành Vĩnh Long cho Pháp rồi nhịn ăn 17 ngày kế đố uống thuốc độc tự tử vào ngày 4-8-1867 thọ 71 tuổi. Phan Thanh Giản sáng tác khá nhiều. Những năm đi thi hội ông có l àm tập thơ Du kinh. Khi người bạn là Lê Bích Ngô chết ông có tập Toái cầm. Thời gian đi sứ sang Trung Quốc có tập Kim đài 1832 . Khi đi sứ sang Pháp để thương lượng chuộc lại ba tỉnh miền Đông ông viết Sứ trình nhật ký 1863 . Hầu hết các sáng tác của Phan Thanh Giản sau này được tập hợp lại trong hai bộ sách Lương Khê thi thảo in 1876 có 103 bài. Bài Giã biệt cho thấy ông là con người nặng tình nặng .