Trịnh Giang – Uy Nam vương (Kỉ dậu 1729-Canh Thân 1740) Chúa thứ sáu đời Hậu Lê, còn có tên là Khương, hiệu Uy Nam vương, miếu hiệu Dụ tổ Thuận vương, nguyên quán làng Sóc Sơn, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa. Năm 1729 chúa An Đô vương Trịnh Cương mất, ông được chọn nối ngôi chúa. Đời ông cầm quyền, công việc nội trị ngoại giao đã đi vào con đường bại vong. Các cuộc khởi nghĩa nông dân nổi lên khắp nơi nhằm lật đổ triều đại thối nát độc đoán do ông cầm đầu. Trong nội. | Trịnh Giang - Uy nam vương Kỉ dậu 1729-Canh Thân 1740 Trịnh Giang - Uy Nam vương Kỉ dậu 1729-Canh Thân 1740 Chúa thứ sáu đời Hậu Lê còn có tên là Khương hiệu Uy Nam vương miếu hiệu Dụ tổ Thuận vương nguyên quán làng Sóc Sơn huyện Vĩnh Lộc tỉnh Thanh Hóa. Năm 1729 chúa An Đô vương Trịnh Cương mất ông được chọn nối ngôi chúa. Đời ông cầm quyền công việc nội trị ngoại giao đã đi vào con đường bại vong. Các cuộc khởi nghĩa nông dân nổi lên khắp nơi nhằm lật đổ triều đại thối nát độc đoán do ông cầm đầu. Trong nội cung thì nhiều việc xấu xa bỉ ổi xảy ra hằng ngày. Vào năm 1731 ông tìm cách vu vua Lê Duy Phương tư thông với vợ Trịnh Cương để bức tử ông vua này. Sử Duy Phương tư thông với vợ Trịnh Cương để bức tử ông vua này. Sử cho rằng ông làm chúa xa xỉ và hung ác quá độ khiến nhân dân căm ghét hơn bao giờ hết. Đến năm Canh Thân 1740 ông bị truất ngôi ở ngôi chúa được 11 năm em là Trịnh Doanh lên thay. Nguồn Nguyễn Q. Thắng Nguyễn Bá Thế 2006 Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam TP. Hồ Chí Minh Trịnh Hoài Đức Ất Dậu 1765-Ất Dậu 1825 Trịnh Hoài Đức Ất Dậu 1765-Ất Dậu 1825 Danh sĩ thời Nguyễn sơ tự là Chỉ Sơn hiệu Cấn Trai viễn tổ vốn người tỉnh Phúc Kiến Trung Quốc đến đời ông nội là Trịnh Hội sang nước ta ngụ ở Phú Xuân Huế sau thân phụ vào Trấn Biên tức Biên Hòa lập nghiệp. Thuở trẻ ông là học trò của Sùng Đức xử sĩ Võ Trường Toản ở Gia Đình. Từ năm 1788 ông thi đỗ rồi làm quan với chúa Nguyễn Ánh. Đến đời Gia Long ông càng được trọng dụng nhiều lần đi sứ Trung Quốc làm đến Thượng thư bộ Lại kiêm bộ Hình và Phó tổng tài Quốc sử quán. Ông nổi tiếng văn chương một thời cùng Lê Quang Định và Ngô Nhơn Tịnh được người đời xưng tặng là Gia Định tam gia trong nhómBình Dương thi xã tiếp thời với thi phái Chiêu Anh Các ở Hà Tiên. Thơ Nôm của ông còn truyền tụng khá nhiều. Năm Ất Dậu 1825 ông mất thọ 60 tuổi. Các tác phẩm chính của ông - Lịch Đại kí - Cấn Trai thi tập. - Nguyên Khang - Bắc sứ thi tập - Khanh tế lục - Gia Định thành thông chí - Gia Định tam gia thi tập Trịnh Kiểm -