Thiên nhiên trong nhiều bài Thơ mới (1932 - 1945) đẹp nhưng buồn. Hãy giải thích vì sao như vậy và chứng minh bằng bài thơ Tràng Giang của Huy Cận

DÀN BÀI CHI TIẾT

1. Phần giải thích

Một trong những đề tài và cảm hứng lớn của Thơ mới (1932 - 1945) là thiên nhiên. Nhìn chung, đó là một thiên nhiên đẹp nhưng buồn. Vì sao vậy?

a) Vì sao thiên nhiên trong Thơ mới đẹp?

Vì thiên nhiên thực ở ngoài đời vốn đẹp (đất nước ta cây cối xanh tươi quanh năm, ánh nắng chan hòa bốn mùa: Việt Nam đất nắng chan hòa - Hoa thơm quả ngọt bốn mùa trời xanh - Nguyễn Đình Thi): thiên nhiên đẹp đó lại được lọc qua tâm hồn nghệ sĩ của các nhà thơ lãng mạn vốn rất tinh tế và nhạy cảm nên lại càng lung linh rực rỡ. Đó là cái đẹp của nghệ thuật chứ không phải cái đẹp trong cuộc đời. Một "chiếc áo mơ phai dệt lá vàng" của Xuân Diệu, một "vườn ai mướt quá xanh như ngọc" của Hàn Mặc Tử, một con hổ "say mồi đứng uống ánh trăng tan" của Thế Lữ... là những vẻ đẹp như thế.

b) Nhưng vì sao thiên nhiên đẹp đó lại buồn?

Vì lòng nhà thơ buồn nên nỗi buồn đã thấm vào cảnh vật làm cho thiên nhiên cũng đượm buồn. Lòng nhà thơ buồn vì họ đều là thế hệ thi nhân mất nước sống trong cảnh đời nô lệ, lại mang cái "Tôi" bé nhỏ, cô đơn của các nhà thơ lãng mạn. Vì thế, mà nhìn trời đẹp. Xuân Diệu thấy buồn:

Hôm nay trời nhẹ lên cao

Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn.

nghe mưa rơi, lòng Huy Cận dâng lên một "nỗi sầu vạn cổ":

Tai nương nước giọt mái nhà

Nghe trời nằng nặng, nghe ta buồn buồn.

c) Cái buồn và cái đẹp ở đây hài hòa gắn bó với nhau trong quan diểm thẩm mĩ của các nhà thơ lãng mạn thời kì 1932 -1945:

Trong cái buồn có cái đẹp và trong cái đẹp lại thường chứa đựng cái buồn. Quan điểm này chắc chắn có phần ảnh hưởng của các nhà thơ lãng mạn phương Tây lúc bấy giờ, đặc biệt là các nhà thơ lãng mạn Pháp như Rim-bô, Véc-len, Bô-đờ-le..., và trong màu sắc lãng mạn của nó, ta vẫn có thể tìm thấy ít nhiều cái ý nghĩa nhân văn, cái tình người trong đó.

Những điều trên đây đã được biểu hiện khá rõ qua một bức tranh thiên nhiên tiêu biểu của Thơ mới: Tràng Giang của Huy Cận.

2. Phần chứng minh bằng bài thơ "Tràng Giang" của Huy Cận

Tràng Giang là bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ lãng mạn Huy Cận trước Cách mạng tháng Tám, cũng là một trong những bài thơ quen thuộc và nổi tiếng nhất của phong trào Thơ mới 1932 - 1945. Đó là hình ảnh một con sông đẹp và buồn được khúc xạ qua nỗi lòng Huy Cận - một thi nhân mất nước đang sống bơ vơ giữa cuộc đời, chưa tìm được hướng đi cho mình trong cảnh đời nô lệ ấy. Hai nét dẹp và buồn kết hợp hài hòa, xuyên thấm vào nhau trong từng hình ảnh, chi tiết, từng câu thơ, chữ thơ, trong cả bài thơ để tạo nêri một Tràng Giang vừa cổ điển vừa hiện đại - một Tràng Giang "mang mang thiên cổ sầu" của hồn Huy Cận.

a) Tràng Giang - một con sông đẹp

Đất nước ta có nhiều dòng sông đẹp. Nhưng đã mấy ai đưa được nhừng dòng sông đẹp đó vào thơ. Phải có cảm nhận tinh tế, phải có con mắt nhìn của thi nhân thì vẻ đẹp đó mới hiện hình lên từng dòng chừ thành bức tranh thơ. Tràng Giang của Huy Cận là một bức tranh thơ như thế.

Ở bài Tràng Giang, thiên nhiên tạo vật trở thành cổ điển nhưng lại được thi nhân cảm nhận bằng một con mắt nhìn mới mẻ và tinh tế.

- Có cái đẹp của màu sắc hài hòa bên sông:

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.

Một nét đẹp quen thuộc, giản dị mà ta thường gặp ở những dòng sông quê hương, nhưng đi vào câu thơ vẫn có gì như êm dịu, mượt mà hơn.

- Có cái đẹp của dòng sông mênh mang giữa đất trời bao la vô tận:

Nắng xuống, trời lèn sâu chót vót

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.

Đây là vẻ đẹp mới mẻ, có giá trị phát hiện của thi nhân. Huy Cận đã đem đến cho người đọc một vẻ đẹp mới của dòng sồng, của bầu trời trong cái không gian ba chiều rộng mênh mông và sâu thăm thẳm. Thiên nhiên được mở rộng đến không cùng trong cảm hứng vũ trụ, vốn là một cảm hứng rất riêng và cùng rất đặc sắc của Huy Cận.

- Lại có cái đẹp như trong một bức tranh cổ điển:

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc

Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa.

Cảnh chiều tà được vẽ lên thật đẹp: một cánh chim chiều chao liệng trên nền mây bạc, đôi cánh hút lấy nắng hoàng hôn như cùng chim sa xuống lấp lánh phía chân trời. Hai nét vẽ chấm phá của nhà nghệ sĩ - một nét hùng vĩ, một nét cô đơn - mà như thu được linh hồn của tạo vật vào bức tranh thơ. Và cánh chim chiều của Huy Cận gợi nhớ những cánh chim chiều trong thơ xưa:

Chim hôm thoi thót về rừng

(Nguyễn Du)

Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi

(Bà Huyện Thanh Quan)

Tóm lại, Tràng Giang là một bài thơ sông nước mang vẻ đẹp trang trọng, cổ kính nhưng lại mới mẻ, hiện đại.

b) Tràng Giang - một con sông buồn

- Con sông đẹp đó lại là một con sông buồn mênh mang, thấm thìa bởi lòng nhà thơ buồn nên nỗi buồn đã thấm sâu vào cảnh vật:

Người buồn cảnh có vui dâu bao giờ.

(Nguyễn Du)

Đúng như Lê Dy đã nhận xét:

Là "Tràng Giang", cáu thơ nào củng dập dềnh sóng nước Là tâm trạng, khổ tlĩơ nào củng lặng lẽ u buồn. trong bài thơ, khổ nào, câu nào, hình ảnh nào, cho đến từng chi tiết, từng chữ thơ cùng đều buồn da diết. Cảnh buồn, người buồn, cho đến cả âm điệu và nhạc điệu thơ cũng buồn mênh mang, sâu lắng. Đó là nỗi buồn mang cảm hứng sông núi, vũ trụ mà thi nhân đã cô đúc lại trong lời để từ:

Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài

- Đi vào bài thơ, khổ thơ nào cùng buồn. Khổ 1 là cảnh trên sông với con sóng "buồn điệp điệp", dòng nước "sầu trăm ngả" và một cành củi khô bơ vơ lạc lõng. Khổ 2 là cảnh xung quanh sông với cái không gian ba chiều rộng mênh mông, sâu thăm thẳm càng làm cho cảnh vật thêm bé nhỏ, hiu hắt, cô đơn: cồn nhỏ lơ thơ, gió đìu hiu, cảnh vãn chợ chiều và bến cô liêu. Đến khổ 3, hiện ra trước mắt ta một con sông không bóng người, không sự sông (mênh mông không một chuyến dò ngang - không cầu gợi chút niềm thản mật) mà chỉ còn lại nhừng cụm bèo trôi giạt trôn sông hay chính là hinh ảnh những cuộc đời chìm nổi, bơ vơ trong chế độ cũ. ơ khổ 4, nỗi buồn dâng lên trong cảnh hoàng hôn trên sông và biến thành nỗi nhớ nhà sâu thăm thẩm trong lòng tác giẩ. Bài thơ khép lại rồi mà nỗi buồn nhớ nhà vẫn mênh mang không dứt như sóng nước vẫn dập dềnh trên Tràng Giang:

Lòng quê dợn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

- Cảnh buồn chính vì người buồn. Nhân vật trữ tình trong bài thơ tuy không xuất hiện nhưng vẫn hiện lên rất rõ qua bài thơ. Đó là Huy Cận với nổi buồn sông núi của một thi nhân mất nước. Đứng trước Tràng Giang mênh mang, đất trời bao la, thi nhân cảm thấy "rợn ngợp": con người thì bé nhỏ, hũu hạn còn vũ trụ thì vô tận vô cùng. Cái cảm giác cô đơn, trống vắng, chông chênh đó đã tạo nên nét buồn riêng của Huy Cận trong Tràng Giang và nỗi buồn đó đã dẫn đến cảm nhận về "cái không" của thi sĩ trước dòng sông hoang vắng:

- Không tiếng: Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều

- Không đò: Mênh mông không một chuyến đò ngang

- Không cầu: Không cầu gợi chút niềm thân mật

- Không khói: Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

Tóm lại, không âm thanh của cuộc sông, không sự vật của con người, không biểu tượng của gia đình, quê hương... không có gì cả! Trong tâm trạng như thế, thi sĩ chỉ còn là một cành củi khô, một cụm bèo trôi giạt trên sông, một cánh chim chiều nhỏ bé đang sa xuống tận phía cuối trời xa. Một thi nhân mất nước chưa tìm được hướng đi cho mình, lại mẫn cảm trước thiên nhiên và cuộc đời, làm sao lại không có nỗi buồn như thế được? Người đọc ngày hôm nay hiểu nỗi lòng Huy Cận, trân trọng "nỗi buồn thế hệ" của ông, vì đằng sau nỗi buồn ấy là một tâm sự yêu nước thầm kín, một tình người yêu quê, nhớ nhà thăm thẳm.

BÀI CÙNG NHÓM
Đã phát hiện trình chặn quảng cáo AdBlock
Trang web này phụ thuộc vào doanh thu từ số lần hiển thị quảng cáo để tồn tại. Vui lòng tắt trình chặn quảng cáo của bạn hoặc tạm dừng tính năng chặn quảng cáo cho trang web này.