Đang chuẩn bị liên kết để tải về tài liệu:
Đánh giá ảnh hưởng của Asen lên sự phát triển phôi cá ngựa vằn (Danio rerio)
Không đóng trình duyệt đến khi xuất hiện nút TẢI XUỐNG
Tải xuống
Asen (thạch tín) là một trong những nguyên tố kim loại nặng nguy hiểm đối với con người và động vật thủy sinh. Khi tích tụ trong cơ thể, asen gây tác hại nghiêm trọng đến nhiều hệ cơ quan như thần kinh, tuần hoàn, tiêu hóa sinh sản và cả ung thư. Nghiên cứu này nhằm đánh giá tác động của asen (As) lên quá trình phát triển phôi cá Ngựa vằn, Danio rerio, ở các giai đoạn phân cắt, phôi nang, phôi vị, phân đốt, hình thành hầu họng và nở (thoát nang). | TAP CHI SINH HOC 2018, 40(1): 51-61 Đánh giá ảnh hưởng của Asen DOI: 10.15625/0866-7160/v40n1.9818 ĐÁNH GIÁ ẢNH HƯỞNG CỦA ASEN LÊN SỰ PHÁT TRIỂN PHÔI CÁ NGỰA VẰN (Danio rerio) Nguyễn Thị Thương Huyền1*, Trần Thị Trúc Đào2, Hoàng Nghĩa Sơn3 1 Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh 2 Trường Trung học phổ thông Ernst Thälmann 3 Viện Sinh học Nhiệt đới, Viện Hàn lâm KH & CN Việt Nam TÓM TẮT: Asen (thạch tín) là một trong những nguyên tố kim loại nặng nguy hiểm đối với con người và động vật thủy sinh. Khi tích tụ trong cơ thể, asen gây tác hại nghiêm trọng đến nhiều hệ cơ quan như thần kinh, tuần hoàn, tiêu hóa sinh sản và cả ung thư. Nghiên cứu này nhằm đánh giá tác động của asen (As) lên quá trình phát triển phôi cá Ngựa vằn, Danio rerio, ở các giai đoạn phân cắt, phôi nang, phôi vị, phân đốt, hình thành hầu họng và nở (thoát nang). Phôi cá ngựa vằn mới thụ tinh được gây nhiễm As ở 9 nồng độ (20, 50, 80, 110, 140, 170, 200, 230, 260 µg/L và lô đối chứng (0 µg/L) trong môi trường Hank’s phôi. Kết quả cho thấy tỷ lệ sống giảm theo sự tăng dần nồng độ As và các giai đoạn của phôi, tuy nhiên, các nồng độ As khảo sát chưa phải là ngưỡng gây chết LCt50 của phôi cá ngựa vằn. Tại các nồng độ khảo sát, nhịp tim tăng theo thứ tự các nồng độ khảo sát, đạt cao nhất tại nồng độ 260 µg/L ở giai đoạn nở của phôi (237,73±1,87 nhịp/phút so với 197,60±2,20 nhịp/phút ở lô đối chứng, p 0,05); tỷ lệ sống ở nồng độ 260 µg/L so với nồng độ 0-110 µg/L giảm 4,44% (p 0,05); trong khi tỷ lệ sống từ nồng độ 140-260 µg/L so với lô đối chứng giảm 10,00%-14,45% (p 0,05); trong khi tỷ lệ sống từ nồng độ 80-260 µg/L so với lô đối chứng giảm từ 10,00%22,22% (p 0,05); giai đoạn phôi vị, phân đốt tỷ lệ phôi sống giảm nhiều và có ý nghĩa thống kê (p 0,05). Cụ thể tại nồng độ 200 µg/L, tỷ lệ phôi sống từ giai đoạn phôi nang đến giai đoạn phôi vị giảm 15%, khác biệt có ý nghĩa thống kê (p 0,05). Nguyên nhân có thể do ở giai đoạn này các cơ quan dần hình thành khá đầy đủ và hoàn thiện, ổn định về