Đang chuẩn bị liên kết để tải về tài liệu:
Sơ bộ đánh giá hiệu quả kỹ thuật, kinh tế và môi trường của việc nuôi lồng cá mú chấm đen, epinephelus malabaricus, bằng cá tươi và thức ăn viên
Không đóng trình duyệt đến khi xuất hiện nút TẢI XUỐNG
Tải xuống
Thí nghiệm nuôi lồng trong 16 tuần được tiến hành nhằm đánh giá hiệu quả kỹ thuật, kinh tế và môi trường của việc nuôi cá mú chấm đen bằng thức ăn cá tươi và thức ăn viên. Trong đó, thức ăn viên được tổng hợp trên cơ sở các kết quả nghiên cứu trước đây. | Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản - số 04/2008 VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU SƠ BỘ ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ KỸ THUẬT, KINH TẾ VÀ MÔI TRƯỜNG CỦA VIỆC NUÔI LỒNG CÁ MÚ CHẤM ĐEN, EPINEPHELUS MALABARICUS, BẰNG CÁ TƯƠI VÀ THỨC ĂN VIÊN PRELIMINARY ASESSMENT OF TECHNICAL, ECONOMIC AND ENVIRONMENTAL EFFICIENCY OF SEACAGE FARMING MALABAR GROUPPER EPINEPHELUS MALABARICUS, USING FRESH FISH AND PELLET DIETS Lê Anh Tuấn Khoa Nuôi trồng Thủy sản - Trường Đại học Nha Trang Tóm tắt Thí nghiệm nuôi lồng trong 16 tuần được tiến hành nhằm đánh giá hiệu quả kỹ thuật, kinh tế và môi trường của việc nuôi cá mú chấm đen bằng thức ăn cá tươi và thức ăn viên. Trong đó, thức ăn viên được tổng hợp trên cơ sở các kết quả nghiên cứu trước đây của chính tác giả. Cá giống có khối lượng trung bình (±SD) ban đầu là 57,4 ± 0,96 g được cho ăn hai lần mỗi ngày đến no với 3 lần lặp cho mỗi nghiệm thức. Các lồng (1,5 x 1 x 1,5 m) được bố trí ở vùng Cửa Bé, thuộc vịnh Nha Trang với nhiệt độ nước 27-30oC, độ mặn 26-30 ppt. Tỷ lệ sống của cá mú là 75-76,7%. Kết quả nghiên cứu cho thấy tốc độ sinh trưởng của cá mú chấm đen được cho ăn thức ăn viên và thức ăn là cá tươi sai khác không có ý nghĩa (P>0,05). Hệ số chuyển hóa thức ăn tính theo chất khô của cá được nuôi bằng thức ăn viên là 2,08 và bằng thức ăn cá tươi là 2,17 (P>0,05). Thức ăn viên có chỉ số NPU khá cao (58,94%) so với thức ăn là cá tươi (47,09%) (P0,05). Tuy nhiên, thành phần lipid của chúng thấp hơn (6,31%) so với cá được cho ăn cá tươi (6,67%) (P0,05). Dry matter-based FCRs of groupers fed pellet and fresh fish were 2.08 and 2.17 (P>0.05), respectively. While pelleted diet-based NPU was higher (58.94%) that that (47.09%) of fresh fish diet (P0,05). Lượng thức ăn tính theo chất khô mà cá mú ăn vào (FIdm) là 190,25 g/con đối với thức ăn viên và 200,78 g/con đối với thức ăn cá rô phi, sự sai khác này không có ý nghĩa (P>0,05). Tuy nhiên, lượng thức ăn khi tính cả độ ẩm cho thức ăn viên và thức ăn cá rô phi (FIwm, Bảng 3) lần lượt sẽ là 203,26 g và 1075,39 g.