Đang chuẩn bị liên kết để tải về tài liệu:
Đánh giá hiện trạng sản xuất cao su nông hộ tại tỉnh Quảng Bình
Không đóng trình duyệt đến khi xuất hiện nút TẢI XUỐNG
Tải xuống
Bài viết trình bày hiện trạng sản xuất cao su nhằm đánh giá khả năng tuân thủ quy trình kỹ thuật của nông hộ trồng cao su trên địa bàn tỉnh Quảng bình. | Đánh giá hiện trạng sản xuất cao su nông hộ tại tỉnh Quảng Bình Tạp chí Khoa học Đại học Huế: Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; ISSN 2588–1191 Tập 126, Số 3D, 2017, Tr. 5–15; http://dx.doi.org/10.26459/hueuni-jard.v126i3D.4280 ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG SẢN XUẤT CAO SU NÔNG HỘ TẠI TỈNH QUẢNG BÌNH Hoàng Bích Thủy1, Trần Thị Thu Hà2 1 Trường Trung cấp Kỹ thuật Công Nông Nghiệp Quảng Bình, 01 Trần Nhật Duật, Đồng Hới, Quảng Bình 2 Trường Đại học Nông Lâm, Đại học Huế, 102 Phùng Hưng, Huế, Việt Nam Tóm tắt: Bài báo trình bày hiện trạng sản xuất cao su nhằm đánh giá khả năng tuân thủ quy trình kỹ thuật của nông hộ trồng cao su trên địa bàn tỉnh Quảng bình. Nghiên cứu sử dụng thông tin thứ cấp; phỏng vấn nông hộ (30 hộ/xã) và phỏng vấn chuyên gia. Kết quả cho thấy: (i) trên địa bàn tỉnh về cơ cấu giống có 12 giống, trong đó RRIM 600 có tỷ lệ số hộ trồng phổ biến nhất (> 30 %); (ii) quy mô và chất lượng vườn cây được đánh giá qua 4 chương trình: Chương trình 327 (1993–1997), Dự án đa dạng hóa nông nghiệp (2000– 2006), Chương trình phát triển cao su tiểu điền (2007–2010) và Chương trình phát triển cao su tiểu điền (2011–2015), trong đó giai đoạn 2011–2015 có chất lượng vườn cây cao su tốt hơn so với 3 giai đoạn trước; (iii) đa số nông hộ trồng cao su đều trồng xen các loại cây ngắn ngày (dưa hấu, ngô, lạc.) ở giai đoạn kiến thiết cơ bản, nhưng 100 % nông hộ không bón chất giữ ẩm; (iv) từ 96,67 % đến 100 % nông hộ ở hai huyện Bố Trạch và Lệ Thủy bón phân chuồng hoai cho cao su trồng mới và trên 90 % số nông hộ bón phân NPK ở thời kỳ kiến thiết cơ bản; (v) bệnh phấn trắng và héo đen đầu lá chiếm tỷ lệ cao cả ở 2 huyện (26,67–50,00 %). Về hiệu quả kinh tế của cây cao su, nông hộ trồng cao su chưa thu được lãi trong 8 năm kiến thiết cơ bản và 1 năm khai thác. Tuy nhiên, trồng xen cây ngắn ngày bình quân thu được 40–50 triệu đồng/ha/năm. Như vậy, trong 3 năm đầu thu được 120–150 triệu đồng. Lãi ước tính sau 9 năm trồng là 60–62