Đang chuẩn bị liên kết để tải về tài liệu:
Bệnh điếc ở trẻ em
Không đóng trình duyệt đến khi xuất hiện nút TẢI XUỐNG
Tải xuống
Tham khảo tài liệu bệnh điếc ở trẻ em , y tế - sức khoẻ, sức khỏe trẻ em phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả | Bệnh điếc ở trẻ em Cha mẹ nên nghĩ đến bệnh điếc khi thấy đứa con dưới 6 tháng tuổi của mình phản ứng khác thường với thế giới âm thanh. Chẳng hạn như bé dửng dưng khi được gọi hoặc không có phản xạ gì trước những tiếng động lớn và gần. Tại Cộng hòa Séc, cứ 1.000 trẻ thì có 20-30 em chậm nói hay nói ngọng do bị điếc và 1 em không nói được cũng do nguyên nhân này. Tại Việt Nam, điều tra của viện Tai mũi họng tiến hành ở 4 xã đồng bằng sông Hồng cho thấy, tỷ lệ điếc nặng chiếm 0,16% tổng số dân. Bệnh điếc ở trẻ nhỏ có thể là bẩm sinh (do bệnh di truyền, bệnh trong thời kỳ bào thai, do đẻ non, đẻ khó, bị ngạt.) hoặc xuất hiện ở tuổi chưa phát triển đầy đủ ngôn ngữ (trước 5 tuổi) do viêm tai, viêm não - màng não. Các bệnh nhiễm virus (như sởi, quai bị) hay nhiễm độc (đặc biệt là nhiễm độc thuốc) đều có thể gây điếc. Những dấu hiệu của bệnh điếc ở trẻ rất khác nhau, tùy theo lứa tuổi. Ở lứa tuổi vườn trẻ và mẫu giáo, đó là: - Thiếu phản ứng đối với các âm thanh. Trẻ dường như không chú ý, không vâng lời do không hiểu hoặc hiểu không rõ những gì người khác nói. - Phát triển mạnh thứ ngôn ngữ bằng nét mặt và điệu bộ (nếu như trẻ hiếu động, thông minh và có nhu cầu giao tiếp). - Một số trẻ trở nên hung dữ, hay cáu gắt hoặc tính khí khác thường do trẻ thấy cô độc, thấy khó khăn trong việc hiểu người khác và làm cho người xung quanh hiểu mình. Ở tuổi đi học, các dấu hiệu đáng lo ngại là: - Trẻ chậm nói, ít nói, diễn đạt khó khăn, phát âm sai. - Học kém, học chậm, thiếu vâng lời. do chỉ tiếp nhận một phần nhỏ lời giảng của giáo viên. - Một số trẻ có sự rối loạn về tính tình do bị quở trách, trêu chọc. Ngoài ra, cha mẹ cần lưu ý khi trẻ có dị hình vành tai hay ống tai ngoài, viêm mũi - họng, đau hoặc viêm tai. Theo các nhà nghiên cứu, để tiên lượng khả năng và kết quả phục hồi chức năng, có thể phân loại trẻ điếc trên một số góc độ chính: 1. Tuổi xuất hiện điếc. - Trẻ bị điếc trước khi biết nói (trước 2 tuổi) thường được gọi là điếc bẩm sinh. Ở những trẻ này, trở ngại do điếc gây ra đối với sự phát triển toàn diện là tối đa. - Ở trẻ bị điếc khi đang tập nói (2-5 tuổi), mức độ điếc càng nặng, hậu quả càng xấu. - Nếu trẻ điếc sau tuổi biết nói (sau 6 tuổi) thì hậu quả ít nặng nề hơn. 2. Mức độ điếc. - Điếc dưới mức 40 dB: Ngôn ngữ của trẻ bình thường nhưng một số trường hợp phát âm bị ngọng. - Từ 40 đến 60 dB: Ngôn ngữ bị giới hạn, âm sắc của giọng nói bị rối loạn. - Từ 60 đến 80 dB: Phân biệt rất khó các phụ âm. Đây là những trẻ điếc nặng, có thể trở thành điếc - câm. - Trên 80 dB: Không thể đạt tới một ngôn ngữ nào nếu không được giúp đỡ bằng những phương pháp đặc biệt. Đây là những trẻ điếc đặc. Có thể luyện nghe cho trẻ điếc bằng cách tận dụng và luyện các phần thính giác còn sót lại ở trẻ. Từ thế kỷ 17, các chuyên gia về thính học đã luyện nghe cho người điếc bằng cách đưa họ đến những thung lũng, nơi tiếng nói to có độ vang vọng lớn; hay đặt người điếc trong những thùng lớn để họ luyện nghe bằng chính tiếng nói của họ được cộng hưởng vang to trong thùng. Quá trình luyện nghe chia làm 4 giai đoạn: Tập nghe, tập phân biệt các âm thanh đã nghe, tập nghe tiếng nói một cách tổng thể, phân tích và hiểu được lời nói. Ngày nay, máy trợ thính đã trở thành một công cụ hiệu quả để nâng sức nghe cho người điếc và một phương tiện phổ biến để luyện nghe. Người Lao Động