Văn nghị luận xã hội: Hồ Chí Minh - Niềm hi vọng lớn nhất

Niềm hi vọng cũng có nhiều tên gọi khác nhau. Song, ở Việt Nam niềm hi vọng được tượng trưng là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chỉ đến lúc này tôi mới càng cảm thấy hiện rõ một ông cụ vóc tầm thước, điềm đạm mà tôi có may mắn được gặp vào tháng 10 năm 1966 trong căn nhà đơn sơ của Người ở Hà Nội. Lòng kính yêu và quý trọng vô hạn của người Việt Nam đối với Bác Hồ đã đưa tôi đến với Người như đến với một người đã rất thân và kính trọng, trạc tuổi với ba tôi đã qua đời.

Lúc đó, cuộc leo thang ném bom của giặc Mĩ là mối đe dọa thường xuyên. Đêm biến thành ngày, ngày là đêm. Tôi được đến thăm Người trước 6 giờ, vào giờ ăn sáng. Tôi không bao giờ quên cảm giác trong mát và sảng khoái của buổi sáng hôm ấy dưới bầu trời ửng hồng của Hà Nội đang chiến đấu. Những cô gái tiếp tục cảnh giới trên các mái nhà sau một đêm không ngủ, khi có còi báo động...

Chúng tôi bước vào một vườn cây xanh, sương ban mai còn đọng trên lá. Ánh sáng tỏa khắp rừng cây cổ thụ trong sự yên lặng khó tả. Có thể ánh sáng của một con người vĩ đại mà tôi sẽ gặp, thôi thúc tôi bước nhanh hơn. Chúng tôi đi giữa hai hàng cây trên một đoạn đường ngắn và đủ để tôi nhớ lại tất cả những điều mà tôi biết về Bác Hồ, người đứng đầu Nhà nước, một nhà thơ, một chiến sĩ. Những bài thơ Người viết trong nhà tù chứa đầy ánh trăng dịu hiền và khát vọng tự do. Tôi thường ôn lại một trong những bài thơ Người viết trong những giờ phút đen tốì đó:

"Trong tù không rượu cũng không hoa,

Cảnh đẹp đêm nay, khó hững hờ.

Người ngắm trăng soi ngoài cứa sổ,

Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ".

(Ngắm trăng)

Tôi biết, trong 40 năm ròng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đấu tranh quên mình, đấu tranh bất hợp pháp. Nhưng khi trả lời câu hỏi của nhà báo nước ngoài: "Cụ đã ở tù bao nhiêu năm'?" Người chỉ nói bằng ý rất thơ:

- Thời gian trong tù bao giờ cũng dài.

Đồng chí Grêcốp, đại sứ Bungari ở Hà Nội kể lại:

Khi đồng chí Anđrây Bansép, bác sĩ của chúng ta hi sinh ở Việt Nam trong khi làm nghĩa vụ quốc tế của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đích thân đến sứ quán Bungari không cầm được nước mắt, hỏi: "Chúng ta sẽ báo tin cho mẹ đồng chí đó như thế nào?". Và khi tới thăm Xôphia, Người muốn được gặp mẹ đồng chí Bansép. Những vấn đề quốc gia quan trọng không làm cho Người quên sự quan tâm đến một bà mẹ có đau thương. Chính mẹ đồng chí Bansép đã kể lại cho tôi kỉ niệm rất cảm động về cuộc gặp gỡ ấy và sự thông cảm qua giọng nói ấm áp của mình.

Như một vị thượng khách, Người đã để lại trên đất nước chúng tôi câu nói quý giá: "Ngày nay, nhăn dân Bugari đã tự tạo được ngay cả những đồng xu mà họ cần thiết". Người không có cuộc sống cá nhân nào khác, ngoài tình thương yêu đối với toàn thể nhân dân cả nước. Thu Hà, một em bé Việt Nam luôn luôn hát bài âu yếm như sự âu yếm của tuổi thiếu niên đối với Bác Hồ, và trong cả tuổi niên thiếu của mình cố gắng, chăm chỉ với những bàn tay nhỏ bé học băng bó vết thương, cứu giúp các em khác trong các trận mưa bom... để đạt danh hiệu cao nhất - "Cháu ngoan Bác Hồ".

Tên Bác Hồ đối với tất cả thiếu nhi Việt Nam giống như một câu chuyện thần thọai mà các em rất quý mến và ưa thích khi được nghe kể.

Chúng tôi dừng lại trước cánh cửa đã mở của một căn nhà nhỏ phủ đầy bóng mát. Cảnh đầu tiên hiện ra trước mắt tôi là lọ hoa hồng trên bàn và một cụ già vóc người tầm thước mà tôi đã được biết qua tranh ảnh. Đó là người Việt Nam cao nhất trong sô' những người Việt Nam mà tôi đã gặp. Người có đôi mắt đăm chiêu, và có thể là người đăm chiêu duy nhất ở Việt Nam.

Tôi tự hỏi: đâu là nguồn gốc bí ẩn của nỗi buồn thầm kín đó? Có thể là sự đau khổ của nhân dân, cũng có thể người linh cảm trước rằng sẽ không được nhìn thấy ước mơ của cả đời mình - giải phóng và thông nhất Tổ quốc của Người - được thực hiện. Nhưng Người đã thấy cuộc đâ'u tranh anh hùng trên -Tổ quốc thân yêu do Người lãnh đạo và tin tưởng vào thắng lợi trong tương lai...

Chúng tôi nói chuyện bằng tiếng Pháp, thứ tiếng mà Người nói rất giỏi. Nhà thơ Tố Hữu cũng có mặt trong cuộc gặp gỡ. Chúng tôi uống chè ướp hương sen không có đường như sinh họat trong một gia đình bình dị nhất.

Người là chủ nhà, là chủ cả đất nước mà chỉ mặc bộ quần áo bà ba giản dị, chân đi đôi dép cao su không tất. Bắt gặp tôi đang chăm chú nhìn lọ hoa hồng - ở đây hoa hồng được coi là sự chúc mừng đô'i với Tổ quốc tôi - Người nói bằng lời nói dễ hiểu rằng trong mọi hoàn cảnh, Người vẫn có được lọ hoa hồng đặt lên bàn làm việc. Chỉ có sự hà khắc trong nhà tù mới tước mất thói quen đó của Người. Lúc này tôi mới cảm nhận ý nghĩa những bông hoa hồng nảy nhụy, tỏa hương trên chiếc cầu nô'i liền hai nước xa xôi chúng ta là như thế nào.

Người hỏi tôi đã đi thăm những nơi nào ở Việt Nam. Người vui mừng khi biết tôi đã được vào thăm Khu Bốn, một vùng bị ném bom đánh phá ngày đêm, để tận mắt thấy lòng dũng cảm kinh ngạc của những con người bình thường. Người sửa cho tôi phát âm chữ "Thanh Hóa" và giải thích thêm âm thứ hai "hoa", ví dụ như "hoa" hồng. Tôi không thể tìm cách lặp lại đúng phát âm của chữ "hóa". Người lưu ý tôi về nhạc điệu của tiếng Việt, vạch vào không khí những bậc, những nốt và chỉ dẫn cho tôi cách lên xuống giọng và những âm nào cần nói như hát. Phải là một nhà thơ thực thụ mới có thể cảm thấy đúng từng thanh điệu chi tiết như vậy trong tiếng nói của dân tộc mình.

... Chúng tôi nói về thị trấn Phủ Lí bị tàn phá ác liệt trước đó mấy ngày. Tôi vẫn còn có những cảm giác nóng hổi về cái miệng núi lửa sâu thẳm, trong đó đã thiêu cháy thị trấn đẹp đẽ này, nơi tôi đã đi qua trước khi nó bị tàn phá. Không để tôi tự trấn tĩnh, Người kể tiếp là đã từng chứng kiến sự bình tĩnh và dũng cảm của nhân dân mình, nhưng một điều ngạc nhiên nhất trong chiến đấu là sự gan góc của phụ nữ Việt Nam.

Khi tiễn tôi ra về, theo tập quán của Việt Nam cũng như của Bungari, chúng tôi dừng lại ở cửa hồi lâu, nói những câu cuối cùng về văn thơ của Người, mà không muốn chia tay. Qua nụ cười dí dỏm, Người nói rằng, Người không phải là nhà thơ. Trong nhà tù, không có việc gì làm, nên Người cũng "tập ghếp vần" thêm. Tôi rút trong túi sách của mình ra tập "Nhật kí trong tù" của Người đã được dịch ra tiếng Pháp và xin Người cho chữ kí kỉ niệm. Tôi làm việc này sau khi gần tạm biệt Người. Con người vĩ đại có một thứ ánh sáng rất kì diệu. Người có phong cách rất tự tin và bình dị. Chính vì thế mà lúc nào tôi cũng cảm thấy gắn bó với hình ảnh của Người.

Ngày nay, tôi rất xúc động nhìn lại nét chữ chân phương, điềm đạm của Người với màu mực còn đỏ tươi trên trang đầu của tập thơ.

Trong những ngày thành phố' và làng mạc Việt Nam có nguy cơ biến thành trơ trụi, sự tàn phá đang đe dọa Thủ đô Hà Nội và sự chết chóc đang đe dọa những em bé Việt Nam, trong tình cảnh đó, với sức yếu đuối của tuổi già, Người vẫn giữ được tự chủ trong quan niệm cũng như trong hành động. Người hi vọng rất sâu sắc vào nhân dân, cũng như nhân dân đặt hi vọng sto lớn vào lãnh tụ của mình.

Sự chết chóc không thể nào dập tắt được niềm hi vọng đó.

Tôi ra về. Một ông cụ vóc người tầm thước, đôi mắt đàm chiêu, mặc bộ đồ quần áo bà ba màu cà phê, chân đi đôi dép cao su không tất dừng lại ở ngưỡng cửa.

Hồ Chí Minh! Niềm hi vọng lớn nhất!

BÀI CÙNG NHÓM
Đã phát hiện trình chặn quảng cáo AdBlock
Trang web này phụ thuộc vào doanh thu từ số lần hiển thị quảng cáo để tồn tại. Vui lòng tắt trình chặn quảng cáo của bạn hoặc tạm dừng tính năng chặn quảng cáo cho trang web này.