Đang chuẩn bị liên kết để tải về tài liệu:
Tác động của thiên tai đến sinh kế các dân tộc thiểu số tỉnh Lào Cai
Không đóng trình duyệt đến khi xuất hiện nút TẢI XUỐNG
Tải xuống
Bài báo này trình bày kết quả điều tra nghiên cứu về hiện trạng sinh kế và những tác động của thiên tai tới sinh kế đồng bào các dân tộc thiểu số tỉnh Lào Cai trong những năm gần đây nhằm làm cơ sở cho việc đề xuất phát triển các mô hình sinh kế bền vững. | 35(4), 342-348 Tạp chí CÁC KHOA HỌC VỀ TRÁI ĐẤT 12-2013 TÁC ĐỘNG CỦA THIÊN TAI ĐẾN SINH KẾ CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ TỈNH LÀO CAI ĐÀO THỊ LƯU, LÊ VĂN HƯƠNG Email: daoluu2007@gmail.com Viện Địa lý, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam Ngày nhận bài: 12 - 9 - 2013 1. Mở đầu Hiện nay, sinh kế bền vững đang là mối quan tâm hàng đầu của con người. Nó là điều kiện cần thiết cho quá trình phát triển nâng cao đời sống nhưng vẫn đáp ứng được đòi hỏi về chất lượng môi trường tự nhiên. Lào Cai có khí hậu nhiệt đới gió mùa, song do nằm sâu trong lục địa bị chi phối bởi yếu tố địa hình phức tạp nên diễn biến thời tiết có phần thay đổi, khác biệt theo thời gian và không gian. Đây là một trong những tỉnh phải đối mặt với các thiên tai như hạn hán, cháy rừng, lũ ống, lũ quét, sạt lở đất, băng giá, sương muối,. Những tác động này đã gây ảnh hưởng nặng nề tới sinh kế người dân địa phương nói chung và đồng bào các dân tộc thiểu số nói riêng. Có sinh kế phải thay đổi, thậm chí mất đi và cũng có sinh kế mới xuất hiện. Thực tế cho thấy việc lựa chọn hoạt động sinh kế của người dân chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố: điều kiện tự nhiên, xã hội, yếu tố con người, vật chất, cơ sở hạ tầng, Bài báo này trình bày kết quả điều tra nghiên cứu về hiện trạng sinh kế và những tác động của thiên tai tới sinh kế đồng bào các dân tộc thiểu số tỉnh Lào Cai trong những năm gần đây nhằm làm cơ sở cho việc đề xuất phát triển các mô hình sinh kế bền vững. 2. Khái quát khu vực nghiên cứu Lào Cai là tỉnh miền núi biên giới nằm phía tây bắc Việt Nam, cách thủ đô Hà Nội 296km theo đường sắt và 345 km theo đường bộ. Toàn tỉnh có tổng diện tích đất tự nhiên là 635.708 ha, trong đó đất nông nghiệp là 76.253,82 ha (chiếm 12,0% diện tích tự nhiên) bao gồm đất trồng cây hàng năm: 53.665 ha, 342 đất trồng cây lâu năm: 10.512 ha, đất cỏ dùng vào chăn nuôi: 3.840,78 ha, đất có mặt nước nuôi trồng thuỷ sản: 1.241,35 ha chiếm 5,04%. Tổng diện tích đất lâm nghiệp là 418.361 ha, chiếm 65,77% diện tích đất tự nhiên,